NHA TRANG MÙA THU

NHA TRANG MÙA THU
MẮT BIỂN MÙA THU

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


…..
       (Tiếp theo)
       Gần hai ngày sau, thằng Đán đặt chân xuống sân ga Hòa Hưng vào tầm bốn giờ sáng. Moi cuộn tiền lẻ giắt trong chiếc túi nhỏ dưới thắt lưng chiếc quần bộ đội bạc màu được vợ gã khâu cho trước chuyến đi, gã trả tiền người lái xe ôm mau mồm mau miệng. Dừng trước cửa địa điểm xí nghiệp thuê làm đại lý tiêu thụ sản phẩm, hắn bấm chuông. Đường phố đã bắt đầu lác đác xe máy, xe đạp, xe lam đi làm. Gánh hủ tiếu, gánh phở đêm vội bán những bát đồ ăn cuối cùng. Thành phố sắp cựa mình thức dậy. Người bảo vệ già ngái ngủ ra mở chiếc cửa sắt kéo nặng trĩu ở tầng trệt, hướng dẫn hắn lên một căn phòng nhỏ tầng trên. Quăng tấm thân rã rời xuống chiếc giường cá nhân trơ trọi trong phòng, gã để cả quần áo, ngủ vùi. Ngủ đã, ăn uống tắm táp sau, mặc cái bụng có vẻ muốn sôi réo đòi hỏi. Chuyến đi hai ngày, ba đêm lăn lóc trên tàu khách Bắc Nam đã hành xác hắn nhừ tử. Mà hắn cũng cần một giấc ngủ no nê để quên đi cuộc gặp bất thình lình với ông Thông trên tàu. Bánh xà phòng thơm năm nào nhận vội trước giờ lên đường ra tiền tuyến mòn ngót bé tẹo giữa đám bọt trắng xóa trong tâm trí gã. Kỷ niệm đã lùi quá xa và không còn mấy ý nghĩa với cuộc đời gã lúc này. Nặng lòng với quá khứ khó sống lắm.
*
*      *
       Trạm giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp thủy tinh "Làng Tre" được thuê làm trụ sở là căn nhà một lầu, một trệt tọa lạc ngay gần khu Chợ Hoàng Hoa Thám, quận Tân Bình. Mặt tiền khá rộng rãi, gần tám mét. Tầng trệt được bố trí dành phần lớn làm quầy giới thiệu sản phẩm. Dưới đó còn có phòng Giao dịch, phòng Kế toán, kho vận, bộ phận bảo vệ ở phía trong. Trên lầu, ngoài phòng làm việc kiêm chỗ ở của Trạm trưởng còn có phòng Nghiệp vụ, phòng Hành chính. Bốn gian phòng còn lại của tầng lầu là nơi ăn chốn ở của ngót chục cán bộ, nhân viên. Thằng Đán làm nhân viên văn phòng, trực điện thoại, làm kế toán ghi chép xuất nhập hàng vào kho. Quanh đây vốn trước là khu gia binh của sỹ quan và binh lính ngụy khu vực giáp sân bay Tân Sơn Nhất. Từ đây đi bộ đến phi trường Tân Sơn Nhất khoảng hơn hai cây số mất cỡ ba chục phút. Tới Ngã tư Bảy Hiền chỉ hơn sáu cây số một chút, đi bộ hết một giờ đồng hồ. Vị trí như vậy là khá thuận cho việc đi lại, vận chuyển và giao dịch. Sau giải phóng, chung quanh khu vực chợ Hoàng Hoa Thám phần lớn là doanh trại bộ đội, nhà ở gia đình quân nhân và cán bộ, chiến sĩ đã hết hạn phục vụ quân đội và định cư ở lại thành phố Hồ Chí Minh. Đa số nhà ống cũ một tầng, mái tôn. Đôi ba chiếc nhà tầng, cái lớn hai lầu một trệt, còn đa số hai tầng, một lầu một trệt. Chả vậy, nếu để ý kỹ sẽ thấy khu vực này có khá nhiều quán ăn, tiệm phở Bắc. Đặc biệt nhiều cửa hàng thịt chó với vô số biển nhớn, biển bé "Cầy tơ bảy món" "Cờ tây khoái khẩu" hoặc "Đặc biệt cầy tơ". Có quán chỉ vẽ tấm quảng cáo với hình một chú mực nhe răng, ngồi toác miệng cười và đeo toong teng trên cổ một củ riềng tướng. Phia dưới hạ độc hàng chữ "Mộc tồn" hài hước…Thực khách chủ yếu là người Bắc, bộ đội, cán bộ biệt phái công tác phía Nam. Người Sài Gòn những năm này không có mấy người ăn thịt chó. Thằng Đán nghe đám đồng nghiệp, bạn bè kháo nhau rằng, trong này bà con theo đạo Phật rất nhiều, họ kiêng dùng. Lại có người bảo rằng, sau rất nhiều năm sinh sống cùng với người ngoại quốc, người Sài Gòn cũng không quen dùng thịt chó nữa, vì các chú khuyển vốn được coi là con vật hết sức thân thiết của người phương Tây. Mà thịt chó thì khá rẻ. Các chủ quán đổi bảy tám ký gạo được một chú khuyển vừa độ ngon thịt. Thậm chí, có thể thuê người bắt chó hoang đầy rẫy phố sá. Vậy nên, bước chân vào các quán thịt chó ở khu Hoàng Hoa Thám này, người Bắc có cảm giác như ở quê mình vậy. Không khí đượm nét đồng quê. Đến cả mắm tôm, húng quế, lá mơ, giềng mẻ, rượu gạo cũng được chuyển từ Bắc vào. Vẫn kiểu ăn giải chiếu, xếp bằng quen thuộc. Mâm là những chiếc bàn gỗ tạp, tre, nứa chân thấp hai ba chục phân. Vẫn kè kè cạnh bàn rượu những "khẩu ba dô ca", chiếc bằng ống nhôm, duya - ra, chiếc bằng ống tre, ống nứa "quốc hồn quốc túy" xếp ngay cạnh chiếu nhậu. Nếu có khác,  thì đó lẫn giữa những chai rượu gạo miền Bắc nút lá chuối, có cả "lade - bia cọp" và rượu đế Gò Vấp. Tất nhiên, thế nào cũng phải có một xô đá lạnh tướng bên cạnh.
       - Ê! Đán. Mày vô được vài ba năm rồi đấy nhỉ. Về thăm bà xã được mấy kỳ rồi.
       - Phải, tao vào cũng được từng ấy thời gian rồi mà về thăm mẹ đĩ có được mỗn một lần. Đi lại từ đây về nhà nhiêu khê bỏ mẹ, lấy tiền đâu mà đi ra đi vào lắm thế được. Đi kiểu gì cũng mấy ngày mấy đêm, vất vưởng mãi dọc đường mới ra được Hà Nội. Lại đổi tàu, đổi xe lên xuống đủ nhoài người rồi. Ở được dăm bữa, nửa tháng, nghĩ đến đường vào ngại bỏ mẹ.
       Thằng Đán nhấc chén rượu đổ gọn vào miệng. Cũng chẳng biết vì đâu mà vào trong này, nó lại "tự dưng" chai rượu đến thế. Cứ uống vào từ chén thứ tư trở đi thì mặt nó tái hẳn. Nó uống được, mà phải nói là "uống bạo". Chưa bao giờ "cho chó ăn chè" cả. Bữa nào uống quá, tạt quán bà Bẩy Sang bên kia đường làm một vại tướng chanh muối đá là êm. Rượu vào, nó ăn nói hoạt khẩu hơn thường ngày. Cái mặt với đám sẹo bên má phải càng ngấm rượu càng tím ngắt giữa mặt, làm người mới gặp nhìn cũng nể nể, nghĩ bụng khéo gặp phải thằng có máu "dữ". Mâm thịt chó bảy món lần này do trưởng trạm hứng chí gọi thết đãi anh em nhân ngày nghỉ cuối tuần. Ngồi quanh mâm toàn anh em cán bộ nhân viên trong trạm. Song đám thằng Đán biết cả, bữa thịt cầy này là để "bôi trơn" thuộc cấp của "thủ trưởng" Diên. Lão cũng kiếm được kha khá với các chuyến chuyển đổi hàng Bắc Nam. Kiếm từ tiền xăng xe, phí vận chuyển, từ chênh lệch hàng hóa, giấy tờ hóa đơn. Cũng có cả tiếng "sột soạt" tiền nong dư dôi nhờ việc "lại quả" của các đối tác làm ăn phía Nam dồn cho khi thực hiện hàng đổi hàng. Từ phía Bắc, ngoài sản phẩm thủy tinh, gạch chịu lửa còn rất nhiều ấm chén bát đĩa hàng sứ Hải Dương, thứ mà thị trường thành thị phía Nam đang chuộng. Hàng ra thì nào là phụ tùng xe đạp, săm lốp Đồng Nai, nước mắm Phan Thiết, thậm chí có chuyến xe chở đến cả trăm trái dừa, hàng tạ đường cát, đường phèn, đường thẻ. Rồi nào đậu xanh, đậu phộng (lạc), đậu nành…"Một vốn bốn lời", "một công đôi việc". Xí nghiệp chấp nhận đổi sản phẩm làm ra với hàng hóa công nghệ phía Nam, mở ra một kiểu buôn bán hàng đổi hàng nhằm cứu lấy công ăn việc làm và thu nhập cho công nhân. So với phía Bắc, việc làm ăn, quan hệ trao đổi ở phía Nam này thoáng hơn nhiều. Nhờ thế, cái trạm bé xíu lọt thỏm giữa khu chợ Hoàng Hoa Thám này của bọn thằng Đán mới tồn tại và ăn ra làm nên vài năm nay. Sống với một thủ lĩnh như vậy, đám nhân viên như thằng Đán cũng dần biết cách xà xẻo, "làm mánh" kiếm tiền riêng.
       Sống trong này, thằng Đán quen dần với việc ồn ã quanh mình tiếng Nam Bộ nằng nặng. Con gái Sài Gòn giọng dìu dịu êm nhẹ, con gái miền Tây sông nước giọng thoảng ngân nga điệu hò điệu lý, con gái miền Đông giọng gọn mà sang sảng. Đàn ông ăn to nói lớn, việc gì cũng muốn thẳng tuột, chúa ghét thót "ba sầm, ba sạo". Phụ nữ thành  phố Sài Gòn hễ ra đường là ăn vận chỉn chu, đầu tóc bới chải kỹ càng, cấm có thấy bà nào quần ngủ, áo trong nhà, quần ngắn áo cộc ra đường bao giờ. Trẻ con đi học trai áo bỏ trong quần, gái áo trắng dài quần trắng ngang ống chân líu ríu. Ngoài đường cơ man nào là xe pháo. Xe lôi, xích lô máy, xe lam ầm ào tung khói mù mịt. Xe Honda đam, Honda sáu bảy, xe tay ga, lambeta, vetspa chạy vèo vèo trên phố. Ô tô rặt những Ford, những Dog, những Hino kềnh càng, ống xả cao ngất ngưởng. Chỉ cần dừng xe trước cột đèn xanh đèn đỏ dăm mươi phút là thấy ngã tư, ngã năm, ngã bảy xanh mù khói xe. Thằng Đán đi khỏi khu chợ là không dám đi bộ. Cứ xe ôm thuê chạy. Tốn kém chút chút đấy nhưng "giữ được giò". Giờ thì nó nói cũng đa đá dăm tiếng nam bộ rồi. Cũng "dô", cũng "xạo", cũng "dư sức", "sức mấy" "ổng, bả" chen lẫn tiếng Bắc nghe ngồ ngộ.
       - Mày đã biết tiếng lão Ba Tàu tướng số nơi Ngã tư Bảy Hiền chưa?
       - Tao có nghe nói, nhưng chưa tới "ổng" bao giờ?
       - Tới đi. Ổng phán hay lắm đó. Tiền vận, hậu vận cứ là vanh vách. Mắt sáng chứ không đui mù như mấy lão thày bói ngoài Bắc đâu. Nghe đâu, cứ trước mỗi chuyến hàng vào ra là bố Diên đều mang lễ ra xin quẻ, xin ngày cả đấy. Tao đây này, ba tháng trước bám chân thằng Thực ra xem ghé, ổng bảo nhìn cái mặt tao có vía hạn, bụng không thực tin gì. Sang tháng sau, y như rằng ông già ở quê đổ bệnh, nhoài được ra thăm bố được một tuần lễ. Thấy ổng đỡ đỡ, đi vào. Ai ngờ, vừa xuống tàu về tới trạm đây thì nhận được điện báo ông cụ mất. Ra cũng không kịp, kiếm vội bơ gạo thắp nắm nhang dặt lên nóc tủ cá nhân, bấm bụng dành tiền trăm ngày ra xin ông tha tội. Ở xa gia đình thế này, sơ sẩy nhiều việc bất ưng lắm. Biết việc thì chuyện đã rồi, Mày nên ra lão thầy Tàu đó xem.
       - Ừ, mày nói phải đấy. Bữa nào rảnh thế nào tao cũng ghé lão.
       Một tuần sau, cũng vào sáng chủ nhật, thằng Đán tìm ra ngã tư Bảy Hiền. Ngôi nhà kiểu Tàu với tấm biển vẽ bàn tay năm ngón xòe rộng cùng dăm chữ Tàu khó hiểu treo cột cửa. Mặt tiền chạy dài, cửa ván bưng trổ lẫn hàng song gỗ tiện. Ngôi nhà nằm trong con hẻm hẹp, mái ngói âm dương võng xuống với đầu kèo chạm trổ tựa trên hàng cột gỗ nâu đỏ bí hiểm. Gã rụt rè bước qua cửa. Người dẫn đường áo cánh đen, khuy vải cài sóng hàng hai trước bụng nhẹ nhàng đưa lão vào gian trong. Đèn đóm lờ nhờ, tranh tối tranh sáng. Bước qua tấm mành cửa, một người đàn ông đội mũ quả dưa, áo dài đen ngồi sau tấm bàn la liệt sách giấy bản chữ tàu. Đôi mắt đen sẫm sâu nhìn thẳng vào gã:
       - Thế cái nị muốn ngộ xem cái zgì, pắt tướng hay ngó chỉ tai đai.
       Chưa kịp mở mồm nói câu gì. Thằng Đán nghe cha Ba Tàu sổ ra một hơi.
       -  Pà thôi. Ngó cái mạt nị ngộ đã khôông muốn them rồi. Cái pản mạt của nị kinh qúa dza. Nị pải xàm lai cái mạt đi. Với cái pản mạt nài nị pải tốn cỡ cay hai mới chám lại tược nghe khôông. Về lo piền li dzồi pén đai, ngộ sỉ chỗ sửa cho.
       Nói rồi, lão bỏ vào nhà trong, chẳng nói chẳng rằng.
       Người giúp việc đứng phía sau nói tiếng bắc rành rọt:
       - Cụ chủ nói rằng cái mặt ông sứt sẹo thế kia xem tướng sao được. Phải làm lại cái mặt. Mất kha khá đấy, phải cây hai vàng chín mới làm lại được. Ổng nói chú về lo tiền đi. Bao giờ có lại đây, ông chỉ chỗ làm cho. Ở lâu với ông, tôi biết. Ổng biết chỗ làm lại được. Có chú lính cộng hòa - ông khẽ giọng - mất nguyên hàm dưới qua đây ổng còn chỉ chỗ cho tái tạo lại được đấy. Tin tôi đi.
       Hoang mang, thằng Đán ra về. Hắn biết ông già nói cái gì. Cái khuôn mặt sứt sẹo lồi lõm này báo hại gã rồi. Nếu không sửa lại, đừng nói gì đến vận hạn, tướng số. Tự cái khuôn mặt xấu xí đã làm hỏng tướng tá con người rồi. Nhưng lấy tiền đâu ra bây giờ. Những cây hai vàng. Giờ gã mới biết thấm thía một cái bản mặt dị dạng sẽ báo hại thế nào cho kẻ định mang nó theo mình suốt đời.

*

*      *
(Còn nữa)

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


…..
       (Tiếp theo)
       Đang là mùa hạ những năm giữa thập kỷ tám mươi, thế kỷ hai mươi. Cuộc chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc mới được ngót mười năm. Đất nước lại vừa trải qua hai cuộc chiến biên giới phía Bắc và Tây nam. Mọi thứ còn rất khó khăn. Cán bộ nhà nước vẫn gạo sổ, tem phiếu thực phẩm. Hàng hóa công nghệ phẩm hiếm hoi, ít ỏi và phải thực hiện chế độ phân phối ngặt nghèo mới đến tay số ít người tiêu dùng chọn lọc. Các cơ quan nhà nước vẫn phân cho cán bộ nhân viên từng bộ săm lốp, từng chục chiếc đũa xe đạp, từng chiếc vỏ hay mền chăn bông. Vật dụng sinh hoạt nhà nào khá giả thì có thêm chiếc quạt tai voi, chiếc nồi áp suất Liên Xô, chiếc vô tuyến truyền hình Neptuyn phân phối đen trắng. Hoặc chiếc Ri-gon-da do lưu học sinh Liên Xô đem về, hay chiếc tivi Nationa, Sanyo, Sony…Các thứ đài điện tử bán dẫn, máy quay đĩa, đầu ghi âm băng cối Teac, Sony, Toshiba……mua lại của đám cán bộ, bộ đội đem từ phía nam ra. Nhà nào vừa vừa thì có chiếc quạt "con cóc" ba mươi lăm đồng, chiếc đài bán dẫn Orionton, Vef 12, chiếc quạt Điện cơ Thống Nhất. Các cơ quan xí nghiệp có nơi mỗi năm phát động tự túc lương thực hai tháng, ba tháng. Bữa cơm ngoài độn bột mì, mì sợi, độn khoai, sắn nay còn thêm cả hạt bo bo. Trẻ con người lớn gặp cảm cúm, ho hoắng viêm nhiễm ốm đau mà được dùng thuốc kháng sinh là rất hiếm khi. Vài viên xuyên tâm liên, cảm đông y nhì nhằng chung cho rất nhiều thứ bệnh thường gặp. Chợ búa nghèo kiệt hàng hóa. Xà phòng kem lổn nhổn khét mùi vôi tôi, xà phòng bánh đen thui thủi chắc chỉ để dùng cho bảo hộ lao động, cho công nhân cơ khí lắp máy…chà đến đau tay mới rịn ra chút bọt. Thậm chí đến cả muối, nước mắm cũng hiếm. Chăn bông, áo bông rặt chỉ có bông tái sinh xanh xanh đỏ đỏ vón thành cục. Nhiều gia đình phải bật lại từng chiếc chăn bông cũ, san ra cho đủ số người trong nhà dùng. Người mỗi lúc sinh sôi nhiều thêm, đông thêm mà vật chất tối thiểu chỉ có hạn. Nhà nước đã phải lên kế hoạch tiết giảm dân số, vận động sinh đẻ ít con.
       Đoàn tàu khách Thống Nhất đông nghẹt người nặng nhọc chuyển bánh sau tiếng hụ..hụ.. mệt mỏi của chiếc đầu kéo chạy dầu. Bỏ ga Đà Nẵng lại đằng sau, con tàu tiếp tục hành trình Bắc Nam bảy mươi hai tiếng đồng hồ. Trên tàu, lúc lỉu trên các toa khách những là bị bọc, ba lô, bao tải, thúng mủng, túi xắc, túi lưới. Giờ có lúc người ta gọi vui với nhau rằng, tàu Bắc Nam là cái chợ có bánh xe. Cũng phải thôi. Trong nam ngoài bắc qua lại trên con đường sắt cả ngàn cây số này chen chúc với hành khách đi tàu là hàng hóa. Bất kể thứ gì, từ trái trứng, quả dừa, cá khô, lọ mắm nêm, chai nước mắm đến xoong nồi đồ nhôm, rổ rá xô chậu đồ nhựa tất tật đều được trung chuyển giữa hai miền bằng tàu khách. Lẫn trong đó, hành khách thật sự của tuyến giao thông huyết mạch nhường nhịn nhau từng xangtimet ghế ngồi, ghế nằm, thậm chí cả sàn tàu. Các toa tàu ứ nghẹn người, nhân viên nhà tàu phải lách từng bàn chân di chuyển qua các toa. Nơi thì giành giật cãi vã ồn ào chỉ vì chút chỗ mắc võng ghé lên giàn hành lý, đong đưa phát khiếp trên đầu trên cổ người ngồi phía dưới. Chỗ khác lại ôn hòa thu xếp với nhau nhường chỗ cho người già, trẻ thơ. Cái xã hội thu nhỏ trên toa tàu bắc nam phản ánh rất trung thực hình ảnh cuộc sống vừa mới chuyển từ thời chiến qua thời bình, chật vật tìm cách sống sao cho đủ cơm ăn áo mặc, giấy vở học hành. Qua các miền đất nghèo Nghệ Tĩnh, miền trung trung bộ nhìn ngoài cửa sổ toa tàu là những cánh đồng sơ xác lúa ngô, khoai sắn nhìn cũng biết thu hoạch lương thực chẳng nhiều nhặn gì. Chen lẫn vào đó là từng vùng cát trắng ngút mắt đầy gió mà vắng ngắt nhà cửa. Từng tốp trẻ con, đông thì cả chục, ít thì dăm ba đứa vai khoác bao dứa, mặt mũi đen nhẻm tóc vàng sơ vì nắng gió tay nhăm nhăm thuốn sắt đi tìm kiếm sắt vụn, vỏ bom mìn, đồ thải loại chiến tranh còn lấp sâu trong lòng cát trắng. Không thấy mấy nhà cửa sầm uất, nếu không lướt qua những vùng đô thị nhấp nhô mái tôn nghèo. Những Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam cũ kỹ lướt qua. Những bát cơm, bát bún, bát cháo ăn vội trên sân ga không đủ lấp đầy dạ dày bao con người trên đường di chuyển. Người ta hối hả đi, hối hả ăn uống, í ới gọi con, chen chúc thét gọi tên nhau, tìm người già trên tàu, dưới ga. Đám hàng hóa vụn bên đường, chủ yếu là bánh kẹo gia công, đường phèn đường cát, đồ ăn nhanh mì hai tôm, ba tôm bám lấy đường tàu. Rồi mẹt, rồi vỏ hộp bìa cac tông bầy dăm củ khoai khúc sắn, dép tông đổ bộ từ dưới ga lên con tàu vội vàng. Để rồi, gặp nhân viên nhà tàu, gặp bóng công an đường sắt lại nháo nhào xô đẩy, nhảy như sung rụng xuống tàu giữa đêm vắng. Thi thoảng, đợt khách này xuống, đợt khách kia lên lại ngậu xị om xòm mất cả tiếng để giành kiếm lấy một chỗ ngồi, chỗ dựa lưng ít ỏi giữa đám người nhễ nhại mồ hôi, nồng khét mùi người lâu ngày không được tắm gội. Không khí đặc quánh mùi thuốc lào, thuốc lá, mùi dầu gió hăng xì. Thi thoảng, len lỏi qua đám người, đám ghế ngồi chút ít gió hiếm hoi lọt qua khe cửa sổ, nhưng lại quyện nồng mùi nước tiểu từ phòng vệ sinh cuối toa hắt lại. Giữa cả trăm, cả chục con người, đi liên tục mấy ngày đêm trên tàu, tranh được cốc nước đánh răng, bát nước rửa mặt trên phòng vệ sinh cuối toa cũng đủ được khen là người xông xáo. Người chậm chân, lành hiền chen được vào những việc đó chỉ có thua. Đành bóp bụng mua chậu nước sạch dưới đường tàu, bất biết là nước giếng, nước máy hay nước sông đánh phèn, san san bớt bớt để dành cốt khắc phục tàm tạm cái nhu cầu vệ sinh răng miệng và lau rửa tối thiểu. Những ga lớn giữa chặng như Vinh, Đồng Hới, Huế, Đà Nẵng…còn có nhà tắm dịch vụ, xếp hàng rồng rắn nghịt người, tắm chưa đủ sạch đã vội vội vàng vàng chạy đuổi theo tàu, đu đại lên, ôm víu bất cứ thứ gì hai bàn tay có thể bám được để trèo vào toa. Và những chi tiêu dè sẻn của khách đi tàu, chỉ cố gắng tiêu dùng vào những nhu cầu tối thiểu ăn, uống, tắm, rửa… cũng vắt móp kha khá hầu bao ít ỏi của họ. Biết làm sao được, giữa thời buổi như thế này, làm sao mà đáp ứng được cho hết nhu cầu hàng ngày của cả triệu vạn hành khách qua lại trên cặp đường ray mỏng manh gầy guộc này của đường sắt bắc nam?!.
       Giữa đám người hỗn độn lúc nào cũng muốn sôi lên ấy, thằng Đán khéo lắm mới ngả được tấm lưng mệt mỏi xuống tấm vải mưa lót vội dưới sàn tàu. Chân không thể duỗi thẳng được, mà bảo rằng co lại thì cũng đâu có được thoải mái. Đầu kẹt giữa một bên là hai cái đầu gối tròn bự của một bà buôn dáng ục ịch. Vai ghé được một bên lại va phải cạnh xương hông khẳng khiu của một cụ già cỡ gần bảy mươi. Còn chung quanh ư, đó là một đám lổn nhổn kẻ nằm người ngồi, ba lô túi xách bọc bị kẹt cứng. Trẻ con có đứa chưa đầy tuổi tôi còn được các bà mẹ đẩy gọn cả vào gầm ghế để chúng bớt phải chịu chen vai thúc cánh với người lớn. Chuyến đi này là chuyến công tác vào nam đầu tiên của thằng Đán, và có thể sẽ còn kéo dài vài năm. Xí nghiệp cần mở rộng việc tiêu thụ sản phẩm ở Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Phải lập một trạm đại lý tiêu thụ hàng hóa trong đó. Đội hình chính đã theo xe hàng vào rồi. Nó đi sau vì còn vướng công việc lao động tiền lương dở dang phải bàn giao cho người khác. Lên tàu ở Hà Nội cách đây hơn một ngày, mãi đến giờ này gã mới tạm gọi là quen quen với cảnh đi tàu bắc nam. Nghĩa là biết ăn theo người khác, ăn vội ăn vàng kiểu tàu xe nhếu nháo. Biết mua bán những vật dụng sinh hoạt tối thiểu. Biết tiêu tiền vào mấy khoản nước rửa, nước uống, cơm đĩa cơm phần hàng ngày trên tàu. Đương nhiên còn phải mắt trước mắt sau giữ cho bằng được chiếc ba lô quần áo tư trang giữa muôn người nhộn nhạo này. Đêm xuống, cả toa tàu chỉ có hai ngọn đèn bé tí, không đủ tỏa hết được chút ánh sáng vàng quạch, yếu xìu tới mọi ngõ ngách trên toa. Cứ sau một ga lẻ có người lên xuống, không góc này cũng góc khác trên toa ồn lên những tiếng kêu thất thanh vì mất tiền, mất đồ. Đi tàu kiểu này, thân ai nấy lo giữ. Không biết, không quen chớ có hào hứng thật thà nhờ vả hay giúp đỡ vặt. Biết đâu đấy. "Phải vạ thì má đã sưng".
       Ga Quảng Ngãi rồi. Tiếng ồn ào từ dưới sân ga dội lên ngay từ khi chuyến tàu vừa mới vào khu vực đầu ghi. "Đường thẻ đây!" "Gà luộc nguyên con đây!" "Hủ tíu nam vang! Bún bò à! Mì Quảng đây!" "Bánh bột lọc, bánh bèo, bánh ú đây!" "Nước nào! Nước sôi đổ bình thủy, nước nguội, nước đá đây!", "Cà phê! Trà đá! Trà bắc đây! Uống mau kẻo hết nào", "Chè thập cẩm, chè trái cây, chè bưởi á!", "Kẹo cao su, kẹo đường phèn không! Nhíp đánh răng, lược nhựa, cây ngoáy tai, kềm cắt móng, dép Thái đơi!" …..Người lao tới vội vàng, người lách xuống, kẻ chen lên, người nhoài xuống nháo nhào. Tiếng la hét, có cả tiếng chửi thề, gắt gỏng. Tất cả ồn lên cỡ gần hai chục phút. Đoàn tàu cựa mình đi trong chút ánh sáng yếu ớt của ngày chuyển qua tối, bỏ lại dưới sân ga đám người mưu sinh dọc đường tàu vón thành một đám mệt mỏi, nhễ nhại. Theo lời ông già nằm cạnh, thằng Đán nghiêng người một bên lấy chỗ trống cho ông khách mới lên. Dưới vành chiếc mũ lá gồi, trong ánh sáng cuối chiều nhập nhoạng, một khuôn mặt râu ria quai nón sợi đen sợi bạc ngang tàng khỏe mạnh. Trông có vẻ quen quen, thằng Đán nhắm vội mắt.
       - Ơ này, đất trời va nhau hay sao thế này. Thằng Đán đây mà, có phải không? Anh Thông mày đây.
       - Xin lỗi bác, bác nhầm em với người khác rồi. Bác cứ xích vào chút nữa cho thoải mái.
       Cố nghiêng phía mặt nhăn nhúm sẹo về phía người đối thoại, thằng Đán khẽ giọng, tiếng méo méo.
       - Thôi chết, có lẽ tôi nhầm người. Chú em tha lỗi cho nhé, già cả lẩm cẩm thế đấy. Nhập nhoạng thế này, mắt mũi kèm nhèm. Tôi chỉ xin ghé nhờ nửa người thôi. Ga sau, ga Diêu Trì tôi xuống rồi.
       Đôi mắt người đàn ông có tuổi như mờ dại hẳn đi. Khổ sở chép miệng, ông ngồi xây lưng quay vội mặt đi chỗ khác rồi úp cái mũ lá xuống mặt ngồi im. Lát sau đã thấy tiếng ông thầm thì với người kế bên, giọng trầm xuống.
       - Tôi có thằng cháu đóng quân ở trường lục quân Diêu Trì, huyện Tuy Phước, Bình Định. Một đứa con gái theo chồng là cán bộ miền Nam tập kết, thống nhất theo về Quảng Ngãi quê chồng. Thằng cháu viết thư vận động gia đình tôi vào trong này sinh sống. Tôi đi chuyến này xem sao rồi ra đón bà ấy và thằng út vào. Mấy hôm trước, tôi còn ghé nhà con cháu chơi mấy ngày với hai thằng cháu ngoại. Ngoài quê tôi, người vào xây dựng kinh tế mới ở trong này cũng kha khá. Thôi thì, rồi cũng theo mấy đứa nó thôi! Ở đâu cứ dễ sống là được. Bỏ quê bỏ quán, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn thân thuộc cũng thấy nặng lòng lắm.
       - Ông tính thế phải đấy. Tôi vốn ở Quỳnh Phụ Thái Bình, vào trong nam này cũng được vài năm rồi. Trồng cao su, nuôi lợn ở Đồng Nai cũng được lắm ông ạ! Việc tuy lam lũ vất vả thật, nhưng thu nhập cũng tạm đủ ăn. Trong này trăm người mười làng, kiếm cho có miếng ăn cũng không mấy khó khăn.
       Thằng Đán nhắm mắt vờ ngủ nghe hai người già nói chuyện. Gã thậm chí còn không dám cựa mạnh. Cố ép người nằm nguyên tư thế vậy đến đau cả một nửa người. Hơn sáu tiếng đồng hồ trôi qua. Gần sáng, con tàu tới ga Diêu Trì. Gã cảm thấy ánh mắt ngại ngần của người đàn ông một lần nữa lướt qua mặt. Không còn lời chào hỏi hồ hởi ồn ã lúc mới lên tàu, người đàn ông khẽ giọng chia tay các hành khách còn nửa thức nửa ngủ bên cạnh. Ông rời tàu rồi, thằng Đán lúc ấy mới thấy người mềm ra. Hú vía. Đây là lần đầu tiên, hay không biết còn lần nào nữa đây, việc gặp những đồng nghiệp chiếu bóng bãi ngày nào khiến gã phải lo lắng? Hắn không thể bịn rịn với quá khứ được. Hắn đang cố là người khác. Xin được theo vào công tác trong này, tránh phía Bắc xa ra một bước cũng là một nước cờ mà ông Kính- bố hắn tính toán cho.
….

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


       …..
       (Tiếp theo)
       Gọi là nói chuyện chứ họ phải gào lên với nhau mới nghe được rõ lời trong sủng xẻng sắt thép và hào hển động cơ. Sẩm tối, chiếc xe dừng lại ở binh trạm Khe Gát, nơi vào ra Trường Sơn của mọi lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tính ra từ lúc xuất phát, đã hơn ba ngày giời trôi qua. Đi liên tục, chỉ nghỉ hai ba tiếng dọc đường. Lần đầu tiên sau hơn tháng trời lặm lội rừng già, thằng Đán biết đến hột cơm và miếng thịt kho mặn. Lần đầu tiên kể từ khi bước vào trận chiến, nó được tắm táp thỏa thuê mà không lo sợ tên bay đạn lạc, mìn bom chết người. Anh Tưởng còn đích thân đưa gã đến hầm bệnh viện dã chiến để rửa và thay băng vết thương. Tay quân y sĩ tròn mắt nhìn thấy vết thương trên mặt thằng Đán. Đó không phải là vết thương do đạn nổ "Nếu đạn nổ thế này thì thằng cu này chết là cái chắc! Nhưng bảo rằng đó là vết tự thương để biến khỏi chiến trường thì không thể tin được vì nó ngoài sức tưởng tượng". Nghĩ bụng vậy thôi, chứ người y sĩ mặt trận chỉ im lặng cần mẫn, chậm rãi rửa ráy, dùng dao tiểu phẫu trích cắt bớt những chờm lấn dư thừa da thịt vá víu quanh vết thương. Khéo léo khâu nhanh những vệt rách hở chưa kịp liền, làm sạch vết thương rồi băng gạc lại cho thằng Đán với một lớp thuốc mỡ chống bội nhiễm lên vết thương. Trông có thể gớm ghiếc đấy, nhưng nếu được phẫu thuật tái tạo tốt, cũng không khó để có được một khuôn mặt dễ nhìn. Riêng hàm răng, cũng phải trồng vào đấy kha khá răng giả, nếu không nói rằng cần phải làm lại toàn bộ hai hàm răng mới hòng tái thẩm mỹ. Khuôn mặt thằng Đán trắng toát băng gạc, chỉ hở đôi mắt và mồm miệng, hai cánh mũi mốc mác. Trông nó khác đến nỗi ông Tưởng suýt xoa khen tay y sĩ: "Này, cậu xứng đáng là thợ dao kéo cao cấp đấy! Hôm mới gặp nó, anh cứ tưởng ma hiện hình đấy". Số thuốc được cấp phát cho thằng Đán có lẽ cũng tương đương với ba cơ số thuốc cá nhân được trang bị khi vào chiến trường. Lủng củng cả thuốc tiêm, sê ranh, ô xy già, cồn y tế, thuốc uống, thuốc bôi. Lại còn cả một gói tướng băng gạc nữa.
       Đêm đó, cả hai mắc võng bên nhau trên bãi khách, nói thêm dăm ba câu chuyện rồi ngủ trong mê mệt dầm dề. Đêm cửa ngõ Trường Sơn không yên tĩnh trong tiếng ầm ì xe pháo và lao xao tiếng người vào ra. Nhưng chiến trường bom đạn lại bỗng như lùi ra xa, rất xa. Cũng là lần đầu tiên cả mấy tháng trời nay, giấc ngủ đến với thằng Đán nhẹ nhàng, không chút nơm nớp lo lắng, dật dờ.
       Sáng ra, vừa mở mắt chưa kịp tỉnh ngủ hẳn thằng Đán đã thấy ông Tưởng hớt hải từ đâu chạy gằn về, mồm hét toáng lên: "Này Đán ơi! Tớ với cậu lại nửa đường đứt gánh rồi! Tớ phải để cục sắt này lại ở trạm để đám cơ công nó tháo ra lấy máy móc, phụ tùng. Tớ sẽ theo xe vào lại trong đó bổ sung cho đoàn vừa bị thiệt hại quân số hôm trước, xe còn mà người không còn.". Thằng Đán chỉ biết há hốc mồm:
       - Thế…thế Em thì thế nào đây. Nằm chết dí ở trạm này sao, hay lại chờ phiên chế…
       - Thằng nỡm, phiên chế đếch gì cái thứ phế phẩm như cậu. Tớ bàn giao được cậu cho cánh lái xe của đoàn vận tải dân sự Cẩm Phả  góc bãi xe kia rồi. Họ đưa thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào, nay đón đám hết hạn phục vụ và thương tật đi ra. Tay này ngày xưa từng vào đoàn xe quốc doanh tớ để giao hàng mãi rồi biết nhau. Tướng tá hơi nghiêm nhưng được cái tốt bụng. Cậu theo hắn đi ra tớ cũng yên tâm. Không vào quân y 7 trạm Ninh Bình thì về trạm quân y 7 Hòn Gai. Đâu chẳng tiếp nhận thương bệnh binh. Thôi, không dài dòng văn tự nữa. Thu xếp tăng võng đồ đoàn rồi theo tớ, tớ bàn giao cậu cho lão ấy ngay cho kịp chuyến. Lão đang chờ đấy.
       Thằng Đán tưởng như chết đuối vớ được cọc, líu ríu dọn dẹp thu xếp. Khi nó ra chiếc IFA mui bạt kín mít góc bãi xe, thì trên thùng đã lố nhố đầy người. Ông lái xe cỡ tuổi cha chú nó đang chờ bên cửa buồng lái. "Ưu tiên cậu thương binh này lên ca bin. Để chú mày ngồi lên thùng xe, đám con gái thanh niên xung phong nó xơi tái chú mày mất!". Quáng quàng ôm vai anh Tưởng, nó ngân ngấn nước mắt nhận trên tay vị cứu tinh mấy ngày qua của nó một bọc đồ tướng gói trong miếng dù pháo sáng.
       - Trong này có một ít lương khô, hai bộ đồ bảo hộ lao động màu xanh cũ. Trong chiến trường tớ dùng quần áo lính quen rồi, chả cần đến nữa. Cố gắng giữ gìn sức khỏe, chịu khó điều trị. Biết đâu, khi chú mày vào lại chiến trường được, anh em mình lại gặp nhau. Tạm biệt "chú lính chì"… vỡ mặt!
       Miệng nói tào lao vậy, nhưng tiếng anh Tưởng có vẻ nghèn nghẹn. Họ đã đi với nhau cả một quãng đường vài trăm cây số nghiêng ngả Trường Sơn. Dẫu sao, cũng có cái tình thân, tình thân lính chiến trường sống chết có nhau. Anh im lặng quay vội đi, không để thằng Đán kịp nhìn thấy đôi mắt buồn tiễn biệt của mình. Những phút như thế, giữa chốn bom đạn giống như sự chia tay trước khi bước vào giữa cái sống cái chết không báo trước. Bên cạnh gã, người lính lái xe già khẽ nuốt tiếng thở dài. Ông giục: "Thôi, lên xe đi. Xuất phát thôi!". Chung quanh họ tiếng động cơ các loại của xe pháo chợt ồn lên. Đoàn xe lần lượt rời khỏi bãi, ngắc ngư chuyển động hướng ra phía Bắc. Dọc đường, cánh lái xe bóp còi chào nhau, đoàn vào, đoàn ra í ới. Chuyến đi trở lại nơi không có tiếng bom đạn đã trở nên thật rõ ràng với thằng Đán. Nó tự véo bắp tay mình. Không phải giấc mơ hão! Đây là sự thật một trăm phần trăm, nó đang trên đường trở ra miền Bắc hậu phương yên bình. Hơn ba ngày sau đó, khi xe ra tới địa phận huyện Đông Triều nằm trên đường mười tám, nó chia tay với bác lái xe già ít nói. Không đôi hồi bịn rịn, gã cuốc bộ về phố núi. Vượt gần ba chục cây số đường núi, gã về đến cửa nhà vừa nửa đêm. Nặng nhọc gục xuống bên thềm đất quen thuộc, gã lịm đi.
       Sáng sớm, ông Kính tá hỏa khi mở cửa ra sân thấy thân hình một người đàn ông mặc bộ đồ bảo hộ lao động màu xanh nằm trên góc thềm lên xuống, chiếc ba lô lính kềnh càng bên cạnh. Lật thân hình nằm nghiêng co quắp lại, ông hét lên không thành tiếng. Thằng Đán, nó đấy! Không thể nhầm lẫn được, với khuôn mặt quấn đầy băng trắng nằm đó, đôi mắt mở trừng trừng. Ông ngất đi. Người nhà vội đưa hai ông con vào nhà.
       Phải đến vài tháng trời nằm giấu mặt trong nhà, thằng Đán mới ra đến ngoài. Hàng xóm chỉ biết rằng, nó được thoái ngũ do không đủ sức khỏe tiếp tục chiến đấu. Vết thương trên mặt không còn dăn dúm ghê sợ nhiều lắm được giải thích do khẩu súng cướp cò, văng quy lát trở lại phá hỏng. Vậy thôi.
       Nửa năm sau, đám cưới thằng Đán diễn ra. Nó cùng vợ con ăn ở chung với bố mẹ. Ông Kính vẫn đi lại hơn hai chục cây số giữa cơ quan và xóm núi. Trông ông già đi hẳn và càng ngày càng lầm lì, ít nói, ít giao tiếp.
       Cuộc chiến chống Mỹ, sau những bom đạn, hy sinh, sao bao năm miệt mài "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" cũng đến ngày nở hoa chiến thắng. Đất nước, quê hương thống nhất. Sau hàng chục năm chiến tranh, những người lính thắng trận trở về. Phố xá, làng quê rộn tiếng cười vui, đầm ấm trong sum họp. Nơi quê nhà, ông Kính lặng lẽ nghỉ việc cơ quan sau chủ trương sắp xếp tinh giản biên chế, song lại nghe nói ông tự nguyện xin về hưu sớm. Người làng không mấy khi thấy ông ra khỏi ngôi nhà nấp dưới bóng hàng cây găng già nua. Thằng Đán nghe chừng lần này nghe lời cha, chí thú công tác nơi xí nghiệp thủy tinh. Duy có điều, nó cũng không mấy khi về thăm nhà như trước. Nếu có về, cũng chớp nhảo đủ để hú hí với vợ con. Chỉ trong gần chục năm, ba đứa trẻ nữa ra đời dưới mái nhà phố núi, ba thế hệ sống cùng nhau trong im lặng, không mấy giao tiếp với bên ngoài. Ở đất quê, đó cũng là cái sự lạ. Nhưng rồi, thiên hạ mải lo sống chung với những khó khăn sau cuộc chiến, không có ai để tâm đến việc đó làm gì. Gia đình ông Kính xưa nay sống trong làng vẫn thế, cán bộ thoát ly mà.
*
*     *

(Còn tiếp)

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


       …..
       (Tiếp theo)
       - Tôi…tôi …lạc đường. Không có vũ khí.
       Gã lắp bắp không thành tiếng. Qua đôi tai, gã cũng chỉ nghe được tiếng mình đang ú ớ với cái giọng lào khào đặc nghẹn.
       - Đứng lên, quay hẳn người lại. Tay giữ nguyên trên cao.
       …..
       - Thôi chết, quân ta đây mà. Chú mày bị thương vỡ cả mặt mũi hay sao mà băng bó kín mít thế này. Đơn vị nào thế, tại sao lại ra nông nỗi này.
       Tiếng người đối diện trùng xuống dù vẫn đanh chắc và đầy cảnh giác. Thằng Đán chợt hạ tay xuống, quều quào ra hiệu.
       - Ơ kìa. Khổ chưa. Mất cả tiếng à. Thôi, thì ra vết thương này làm chú mày không nói được rồi. À, đánh nhau. Ờ..ờ.. hiểu rồi, gặp ổ phục kích. Ờ..ờ.. Đơn vị bị tấn công tứ phía, bị chia vụn ra. Rồi! Bị thương nằm lấp dưới xác đồng đội. Ồ, Thế à! Khổ chú mày rồi. Tỉnh dậy, bò được ra khỏi trận địa thì máy bay đến bắn à! Tiên sư cái thằng giặc, sao mà nó ác thế. Người lính ra trận trúng hòn tên mũi đạn rồi còn oanh kích muốn làm tan xác người ta. Ừ…ừ…vừa đi vừa nghỉ đã hơn chục ngày rồi kia à. Đấy, tớ với cái xe này cũng bị bom đánh ba ngày trước đấy. Thôi, đừng cố nói bằng tay nữa, kẻo mệt. Để tớ dọn cho chú mày cái góc này nằm tạm. Nhờ giời xe không bị hỏng nặng phần đầu. Tớ có lệnh đưa chiếc xe này về tuyến sau. Thế có gì vào bụng chưa. Chưa à, đã bị thương lại đói rũ thế này. Khổ chưa? Mẹ chúng nó chứ, cái lũ quân Mỹ thối tha và đám ngụy quân, ngụy quyền phản quốc. Hiệp định Pa - ri ký rồi đấy, mà nó còn ngoan cố quyết giữ cái xác ma chính quyền Thiệu - Hương. Rồi đây, quân Mỹ rút, chỉ còn quân ta với nó đánh nhau tay bo. Xem rồi cái đám ngụy thối ấy có bám đít mấy thằng Mỹ mãi được không? Thế nào chúng nó cũng thua thôi. À, mà chú mày đừng nói bằng tay mãi thế, tao hiểu rồi. Mà có vẻ cái tai thằng này cũng có vấn đề rồi. Nghỉ đi, tao lấy cho mấy miếng lương khô. Chịu khó nhấm nháp vậy. Mà ăn từ từ thôi đấy, kẻo nghẹn, sặc mà đâm khổ. Khi nào gặp binh trạm, lại có cơm thôi. Trên ca bin có cái băng ghế nhưng bom nó phạt mẹ nó mất nửa rồi. Chỗ tớ ngồi lái, đang phải dùng tạm miếng gỗ thùng đạn lót tạm. Chú mày mà nằm trên đó thì không có chỗ xoay trở, lại vướng chân vướng tay tớ. Ăn đi, bi đông có không, tớ sẻ cho vài miếng nước. Để chắc ăn, tớ lấy đoạn dây dù này buộc cậu vào cọc khung xe, để phòng trên đường, xóc quá chú mày nhỡ rơi lọt xuống gầm xe, đâm thằng tớ lại "làm phúc phải tội". Tranh thủ ngủ đi. Tảng sáng xuất phát. Đây là góc cắt giữa đường nhánh Đông và Tây Trường Sơn rồi. Mình đang trên đất Thừa Thiên. Ngoài kia là cầu ngầm Hiền Lương đấy. Nếu thuận lợi, chỉ ba ngày nữa là mình ra đến Quảng Bình. Thêm xăng dầu và kiếm chút lương ăn, sau đó tớ còn đưa xe ra trạm đại tu Thọ Xuân, Thanh Hóa. Tới đó nếu cậu còn đi tiếp về tuyến sau, bệnh viện dã chiến của quân y 7 đang đóng ở Ninh Bình đấy, tớ sẽ bày cho cách đi tiếp. À! mà tớ tên Tưởng, lính lái xe C9 thuộc D102 ô tô vận tải đoàn 559.
       Mệt rã cả người, lại còn sợ đến vãi đái. Không hiểu linh tính sui khiến thế nào, may thế. Cái trò giả câm hoa chân múa tay ngày nào được thằng Củng "quai" công nhân chiếu bóng khu Tây bày cho để chọc ghẹo gái quê huyện Hà lại có giá trị đến thế. Trong bóng tối chìa bàn tay ra không rõ ngón, gã hình dung người đàn ông trước mặt nặng mùi mồ hôi và săng xe này chắc cũng to đậm và thật thà, giàu lòng thương người. Giời quả đã cứu mạng nó. Giữa cùng cốc núi rừng và bom đạn rách giời này nó đã quá may, một lần nữa  lại gặp được người đằng mình. Hơn thế, nó có được cơ hội quay về tuyến sau hết sức thuận lợi. Ngoan ngoãn nghe lời người lính lái xe, nó để anh ta buộc mình cố định vào góc thùng xe, chiếc ba lô nằm trước ngực và góc thành xe cũng được ghì với thân nó thành một khối. Chưa biết thế nào, nhưng cái cách này khá an toàn như dây lưng bảo hộ vậy. Có va đập gì thì đã có chiếc ba lô giảm chấn cho. Nhấm nháp miếng lương khô, nó im lặng nghe người lính lái xe trèo lên ca bin phía trước. Không nghe tiếng cửa xe va đập. Chỉ thấy chiếc xe nhún nhảy nhẹ. Chắc cánh cửa buồng lái cũng không còn. Một lúc sau, đã thấy tiếng anh ta ngáy ran. Nó cũng thiếp đi trong mệt nhọc cùng niềm tin được sống sót.
       Thằng Đán biết được chiếc xe bắt đầu chuyển bánh là nhờ một cú lắc nên thân khiến gã choàng tỉnh sau giấc ngủ mê mệt. Dù đã được cột dây vào thành xe mà những cú xóc, lắc… "hứ… hự" vẫn làm hắn phát hoảng. Chiếc xe chuyển bánh trong tiếng va đập chói tai của đủ thứ rung lắc, rời rã của những khung, những sàn, những bệ tưởng có thể rời rụng ngay ra được. Nếu ông Tưởng không "bó" hắn vào khung vách sau ca - bin bằng dây, hắn có thể rơi lọt xuống đường bất cứ lúc nào. Trời sáng mờ, nặng trĩu sương rừng. Song từ cái chỗ được coi là an toàn của mình, gã vẫn nhìn thấy những lỗ chỗ sàn xe, những thanh gầm rung bần bật ngay dưới chân. Nhìn ra phía trước chỉ thấy mờ sương. Nhìn về phía sau, dưới ánh sáng mờ của chiếc đèn gầm thì chỉ thấy từng vầng bụi dở đen dở vàng cuộn lên sau xe. Mù mịt, rung lắc nghiêng ngả. Bụng nghĩ thôi thì phó mặc cho "ông trời", nhưng dạ cứ bồn chồn vì không biết cái cối xay có bánh này liệu có nghiến thêm cả mình dưới nền đường không, nếu vô phúc…tuột ráo cả mớ dây buộc ngùng ngoằng này.
       Hơn nửa ngày trôi qua trong va đập bầm dập và xóc muốn tung ruột, chiếc xe bỗng có vẻ đi êm hơn, thuần tính hơn. Thằng Đán biết đã qua cung đường bị bom cày phá nát. Chiếc xe bỗng dừng lại. Trời không có chút tia nắng nao, âm u mù mịt. Đầu óc gã vẫn đang ù lên như nằm trong thùng sát lăn trên đường đá hộc. Tai nghe tiếng anh Tưởng mà cứ như tiếng vọng xa lắc xa lơ nơi nào vẳng đến.
       - Chú mày chờ tớ chút nhé. Thêm tý nước két đã. Mà phải nghĩ cách cho cậu cả lên trên này thôi. Nhỡ gặp mấy thằng C130 "đi chợ trời" lảng vảng thoi cho mấy quả rocket thì nhào xuống không kịp đâu. Trời mù thế này chưa chắc nó đã "đi tuần đường". Nhưng cứ "cẩn tắc đỡ áy náy" cái đã.
       Sau đó, thằng Đán được cho lên ca - bin thật. Ông Tưởng quá khéo. Vài cành cây cỡ bắp tay và dây rừng thôi mà ông ấy đan bện thế nào mà rọ không ra rọ, ghế không ra ghế, cũi không ra cũi găm được lên nửa băng ghế lái sứt mẻ trên ca - bin. Trông thế mà cũng chắc chắn ra phết. Chỉ phải cái chợt ngó kỹ xuống cái đám lò xo ghế gãy vụn chổng ngược lên trời, thằng Đán bỗng nổi gai người khi nghĩ nếu không có đám xoắn vặn dây leo kết thành chỗ ngồi cho nó thì cỗ "bàn tọa" của mình chịu đựng thế nào với đám bùng nhùng ruột ghế sắt thép gớm ghiếc ấy. Cứ là "nát tương bần". Tuy nhiên, khi leo lên ngồi, cái chỗ của nó lại cao hơn chỗ ông Tưởng gần một cái đầu. Quăng cho nó chiếc mũ sắt lính lái, anh Tưởng quát khẽ: "Đội vào, giữ lấy cái gáo". Kính buồng lái chẳng còn mảnh vỡ nào dính được trên đó đã đành, mà toàn bộ ca - pô phía trước cũng "sơ tán" đâu hết cả, lộ một đám những máy móc đen xì muội khói dầu mỡ, két nước, cánh quạt và lổn nhổn những bu - gi ốc ác dây nhợ. Hai cánh cửa ca bin chắc đã bay mất dọc đường, được ông Tưởng chọn hai cây gỗ bằng bắp chân gác chéo cài phía trong. Có đổ xe thì cũng không văng được người ngồi trên ca - bin ra ngoài. Ngoái lại phía sau, gỗ sàn thùng bệ lởm chởm cái còn cái mất. Góc thằng Đán ngồi đêm trước cũng sắp bửa ra đến nơi. Bằng một nhát búa tạ, ông Tưởng khiến nó văng nốt xuống đường. Cả cái xe lúc này trông như cái thuyền mui bằng giấy trẻ con vẫn gấp chơi, với phần còn lại là chiếc ca - bin ngất nghểu phía mũi. Gỡ miếng bạt còn vương lại trên khung mái, ông Tưởng gấp thành một cái đệm vuông vức lót lên "cái gọi là ghế" cho thằng Đán ngồi, miệng lẩm bẩm: "Thế này cũng êm chán rồi". Bẻ gói lương khô làm đôi, ông Tưởng giục nó: "Tranh thủ ăn đi, từ giờ ra tới Khe Gát mình sẽ đi một mạch".
       Cung đường tiếp theo có êm hơn đôi chút. Đôi chỗ, xe lại chui vào những mái lá xanh rờn. "Những đoạn như thế này, bọn tớ gọi là đường Trường Sơn có "vung". Thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến làm cả đấy. Vừa kín đường, vừa lừa được bọn giặc trời". Bắt đầu thấy có xe phía trước đi vào. Lá ngụy trang giắt đầy quanh xe. Xe chở bộ đội, thanh niên xung phong, xe chở đạn, chở hàng. Những chiếc xe đi ngược vào, gặp chiếc Gat 63 của ông Tưởng chỉ khoát tay chào nhanh. Có vẻ họ dã quá quen hoặc chẳng lạ lẫm gì với cái đám sắt vụn biết đi này trên đường. Hàng ngày, biết bao lượt xe lúc vào còn nguyên màu lá, khi quay ra đã có chiếc rách bươm rách nát như vậy. Chiến trường là thế, tuyến vận tải Trường Sơn là thế. Cảnh ra vào tấp nập làm cung đường bớt cái vẻ quạnh hiu bom đạn. Và sức sống con đường, cũng góp phần làm ấm lòng người ra trận. Chiếc xe ông Tưởng lái phun khói như một chiếc điếu cày khổng lồ. Thằng Đán ngồi một hồi rồi cũng quen với mùi dầu ma - dut hôi rình. Nghe nó nói câu đầu tiên hơi méo mó :"Anh đi thế này đã nhiều chưa?" Anh Tưởng tròn xoe mắt: "Này, chú mày nói lại được rồi à?"
       - Đêm qua, Anh dí súng ngang đầu Em làm Em tưởng thám báo. Chỉ chờ nó đòm một phát thì nghe được tiếng Anh. Vừa mừng, vừa ngộp không sao nói được câu gì, đành ra hiệu bằng tay với Anh. Đừng giận thằng Em nhé.
       - Giận cái đếch gì. Nhìn cái bản mặt băng bó thế kia, cứ tưởng chú mày vỡ mất tong cái "Đài phát thanh" rồi. Nhưng mà nói được cũng còn nghe hơi khó đấy. Nói ít thôi, kẻo mệt. Ra đến binh trạm, phải nhờ mấy cậu quân y làm vệ sinh cái mặt cho cậu, kẻo băng bó mãi kiểu này, cái mặt chú mày lại thũng ra mất. Tớ làm "lính xế" Trường Sơn hơn bốn năm rồi, từ cuối sáu tám. Gặp thằng mặt mũi như cậu và cho lên xe mới là một. Lái xe ra vào liên tục. Ấy là trong chiến trường này thôi. Chứ trước tớ là lái xe Quốc doanh vận tải Thanh Hóa đấy. Một mẹ đĩ và ba nhóc rồi còn gì, hai trai một gái. Cứ thau tháu năm một, đứa lớn nay lên chín tuổi rồi. Mẹ thằng cu làm bên cửa hàng chất đốt của huyện Quảng Xương. Mẹ đĩ cùng lũ trẻ sống ngay tại tập thể cửa hàng.
…….

(Còn tiếp)

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


       …..
       (Tiếp theo)  
       Đêm xuống, hai đứa mắc võng lên chạc cây như mọi khi. Thằng Lừ ở phía trên với vũ khí trong tay, vừa cảnh giới vừa sẵn sàng hỗ trợ bạn. Thằng Đán ở chếch phía dưới, chỉ ôm gọn chiếc ba lô đồ đạc quần áo. Trước khi đi ngủ, thằng Đán còn thì thào, giọng méo xệch nói với thằng Lừ: "Sớm mai, mình sẽ đi đến lúc gặp bất kỳ đơn vị nào của ta thì dừng lại, xin thu dung. Mày nhớ kể về việc cứu sống tao dưới dòng nước lũ, vũ khí quân trang thất lạc không còn gì nghe không? Nếu được chấp nhận thu dung, phải xin bằng được về cùng một tiểu đội. Trong chiến trường lúc này, chỉ có mình mày là người thân của tao thôi!"
       Sáng ra, dù đã thức dậy thật sớm, nhưng thằng Lừ giật mình khi không thấy bóng dáng thằng Đán đâu. Chỗ nó mắc võng ở chạc cây bên dưới trống không, tìm quanh không thấy dấu vết gì. Thằng Lừ trèo lên thật cao, phóng mắt nhìn khắp bốn phía. Không thấy bóng người nào hết. Nó biến đi đằng nào nhỉ? Cuối cùng, biết tìm mãi cũng chẳng ích gì, nó bỏ đi với chiếc ba lô của thằng Tiệm gần như rỗng không chứa hai cơ số đạn, mấy quả lựu đạn, cây dao rừng trên tay và cây súng CKC khoác vai. Một mình nó lên đường, không tiến về phía con đường vận tải phía Tây mà chếch về phía Nam, nơi có tiếng súng đạn chiến trận ầm ì. Nó quyết một mình tìm về với đồng đội, tiếp tục đánh giặc. Trong đầu nó, cứ quanh quẩn với thắc mắc không có câu giải đáp: "Thằng Đán bỏ đi đâu vậy, tại sao nó không đi tiếp với mình nữa, hay…". Bỏ qua ý nghĩ thằng Đán bị cọp vồ, nếu vồ nó phải biết chứ, hoặc nó bị thám báo bắt cóc?...Chịu, không thể hiểu được điều gì đã xảy ra, nó háo hức tiến về phía trước, nơi có tiếng súng của đồng đội đang đối mặt với quân thù.
       Thằng Lừ không bao giờ biết được rằng, mấy tiếng sau khi nó ngủ im, thằng Đán đã vận động nhẹ nhàng xuống đám lá dầy dưới gốc cây săng lẻ. Hắn lặng lẽ đi lùi hẳn về phía Đông gần một nghìn mét, leo lên một cây lim già, tìm chỗ có cành lá rậm rạp nhất nằm ôm chặt lấy chạc cây trên cao ẩn náu. Gã đã quyết, để mặc thằng Lừ đi con đường của nó, gã sẽ tìm cách trở ngược ra con đường vào chiến trường. Chiến tranh, bom đạn chiến trường đối với nó đã quá đủ, quá khủng khiếp và vất vả xương máu rồi. Chưa kể đến, cái tội vi phạm điều luật chiến trường, bỏ ngũ, bỏ thi thể tử sĩ không biết lấy lý do gì để bao biện. Không dám ngủ tiếp, gã nằm chong mắt đợi trời sáng. Sáng ra, từ trên ngọn cây phía xa, nó thấy trong sương sớm bóng thằng Lừ mờ mờ tìm kiếm quanh quẩn một lúc rồi khoác cây súng lên vai, tay cầm dao bỏ đi. Nằm bất động trên cây, với hai gói lương khô thủ sẵn trong ba lô mấy ngày trước đó, nó ăn qua quýt, mở bi đông uống ngụm nước dây rừng chờ đợi. Kiểm lại đồ đoàn trong chiếc ba lô của thằng Lừ, ngoài tư trang của hai thằng, thằng Đán giật mình trước  cả một kho đồ quý. Có đến hai lạng cao hổ cốt đúc trong ống nứa dài cỡ gần hai mươi phân. Năm miếng sâm, mỗi miếng tầm ngón tay út trẻ con bọc trong gói giấy bóng kính. Hai chiếc vòng bạc đặc, chắc là vòng đeo cổ. Tất tật được gói trong một tấm vải đen dày có hoa văn thêu chằng chịt bao nhiêu hình thù chim thú khó hiểu, những đường sổ dọc, sổ ngang và hình thoi, hình vuông, quả trám rỗng đan chen nhau. Thậm chí, còn có cả một miếng vỏ quế thơm lựng bằng cỡ vỏ chiếc chai con. Đó là cả một đống của nả chứ ít à! Dúi kỹ càng bọc vải giữa đám quân trang, thằng Đán còn nhẩm tính, trừ hai gói lương khô ở túi ngoài mà buổi sớm nó đã ăn mất một miếng, cộng với 2 bánh lương khô 107 to bằng nửa bàn tay và ba hộp ruốc thịt, nó có thể chịu được tới mươi ngày. Hôm đó rừng già yên tĩnh, ngoài tiếng xào xạc cây rừng, tịnh không có biến động nào đáng kể. Trời mù mây nhưng không mưa. Phía xa, vẫn tiếng động cơ ô tô ì ầm vọng lại. Đường vận chuyển Trường Sơn đang ở thời kỳ an toàn cho công tác vận chuyển vũ khí, đạn dược, thuốc men ra tiền tuyến. Chờ đến giữa buổi sáng ngày hôm sau, nó mới tụt xuống hướng về phía con đường, bụng nghĩ cách đêm xuống sẽ bám bằng được được bất kể chuyến xe nào đi ra.
*
*      *
       Từ trên cao, thằng Đán há hốc mồm nhìn xuống con đường vận tải nhánh Tây Trường Sơn mang tên Hồ Chí Minh huyền thoại. Gã đã đi khỏi khu rừng được bốn năm ngày. Vẫn ngày đi đêm nghỉ, gặp cây lên cây, gặp hốc đá chui vào hốc đá. Đi chậm và hết sức lắng nghe, cảnh giác vì sợ chạm thám báo ngụy. Rồi cây rừng thưa dần, lộ diện những bãi trống nát tươm bom đạn, cây rừng đổ ngã, cháy xém hoặc vỡ vụn. Bây giờ đứng đây, nó ngẩn ra trước con đường. Đó đâu có còn là một con đường nữa. Chứng tích của những cuộc ném bom rải thảm, oanh tạc và pháo bầy làm cả miền đất xơ xác bom đạn. Cây cối trụi trơ, bị phạt cụt, cháy xém, khét mù, chẻ tướp ra làm nhiều mảnh và không còn thấy màu xanh quen thuộc của rừng đâu cả. Xuống thấp hơn, có vẻ con đường trông như một vết hằn giữa thân thể núi rừng. Đất đá, mọi vật chất vốn tồn tại trước đó, tất tần tật trông chỉ còn như một dòng sông bụi vắt ngang các sườn núi, khe sâu. Mọi thứ còn lại trong hình hài trông không giống với đồi, rừng, đất thung nữa. Vương vất trên con đường, một màn bụi mờ lờ nhờ. Đây đó đất đá bị cày sới, vật lên phơi mình vương vãi. Thế này mà mưa rừng đổ xuống triền miên thì con đường sẽ thành con sông bùn. Đủ thứ hình khối méo mó, cong queo văng vật bên đường gợi đến những gì trước đó là vật dụng chiến tranh, khí cụ, xe cơ giới. Vô vàn những vương vãi của mảnh bom, mảnh đạn. Những khòng kheo của nòng súng, trục xe. Những vành mâm méo mó, những bệ, những gầm xe vỡ nát, rơi rụng, quăn cuộn. Có cả những xác xe, đôi ba khẩu sơn pháo nằm chổng càng dưới khe vực. Đâu đó vương trên những cành cây cụt ngọn là những miếng bạt rách của thùng xe vận tải, những vô lăng gãy xỡ, những chiếc lốp cháy nham nhở…Giờ này, con đường đang vắng những bóng xe nghiêng ngả vượt tuyến, nhưng vẫn đọng nặng trong không trung mùi khói đạn, khói bom, khói xăng dầu vương vất. Gần tối đến nơi rồi. Rồi đêm sẽ đổ xuống ngập tràn con đường. Những chuyến xe đang ầm ì trên cung đường đâu đó ngoài kia rồi lại trườn tới. Những ngọn đèn gầm vàng nhờ soi không quá mũi xe thước rưỡi, hai thước trong đêm. Những chiếc xe lầm lũi và cần mẫn vượt qua những đoạn đường dốc ngược hay bùn đất lê lết, vượt qua những con suối hoang dại giữa thung sâu, sương mù ma quái và bồng bềnh ngay trước ánh đèn xe. Đã từng được ngồi xe hành quân đôi ba quãng trên con đường đi vào chiến trường, thằng Đán gai người lại trước khí lạnh đêm Trường Sơn. Nó lần sờ bước thấp bước cao dọc con đường, không biết phía trước rồi sẽ dẫn đi đâu. Đi vào hay đi ra. Cảm giác cô độc, lạc lõng giữa con đường choán ngập mọi cảm giác. Nó cứ lầm lũi bước, bước hẫng hụt mò mẫm tưởng như không có điểm dừng trong thiên la địa phủ như vậy khi chợt thấy bên đường, trong bóng tối loạng quạng nó nhận ra hình thù méo mó của một chiếc xe, Gat 63 hay Zin 57 gì đó. Thùng xe bị bom phạt đi già nửa, chỉ còn phần khung mái giáp ca bin xe. Nhìn qua cũng biết xe bị đánh bom dọc đường. Ca bin xe tối om, không còn mảnh kính nào. Khẽ khàng leo lên bệ gầm chiếc xe, thằng Đán mỏi mệt bò đến phần vòm khung còn lại phía trước. Dưới chân, sàn xe thủng lỗ chỗ, miếng bé cũng lọt thân người. Có chỗ cả vạt nền xe bị bóc trơ bệ khung. Bò sát đến góc trái sau ca bin, nó tìm được một phần nền thùng xe chưa bị bóc trơ, phía trên lúc lỉu góc bạt che ngắn ngủn. Hạ tấm thân mỏi dừ xuống góc thùng xe, nó bỗng thấy cái mệt ở đâu đó bây giờ mới trĩu nén xuống toàn thân. Ôm chặt chiếc ba lô trước bụng, nó uống dè ngụm nước nhỏ trong chiếc bi đông bên dây lưng. Móc túi cóc bên trái, gã lần giở gói giấy nhỏ bằng nửa bàn tay. Nhặt một miếng sâm nhỏ bằng hạt ngô, nó đưa lên miệng, ngậm lại. Vị ngọt, ấm hơi nồng ngái thấm vào lưỡi. Nó không còn tí gì để ăn nữa. Miếng bánh lương khô cuối cùng đã nằm trong cái dạ dày lép xẹp của gã cách giờ này cả buổi rồi. May mà hôm trước, gã đã cẩn thận moi ra từ gói vải vùi tận đáy ba lô một củ sâm bé nhất, dùng chiếc dao lê nhặt được bên đường cắt nhỏ từng viên một gói riêng để ra bên ngoài. Ngậm sâm. Nó vẫn thường nghe bố nó kể xưa có người ngậm sâm đã cầm cự được cái đói, cái suy sụp sức khỏe nhiều ngày liền. Yên chí, nó hai tay ôm đầu, thiếp đi. Mặc xác súng đạn, đường xá. Cứ biết nghỉ ngơi chút chút trên cái xác xe này đã. Chỗ ẩn nấp này trong đêm có vẻ như là quá an toàn. Mọi chuyện rồi tính sau
       - Im lặng! đưa hai tay lên đầu.
       Một tiếng quát đủ đanh gọn và vừa nghe sát sạt bên tai. Thằng Đán cứng người. Qua kẽ các ngón bàn tay úp mặt, gã lóa mắt trước một tia đèn nhỏ như hột đậu đen chiếu vào. Không phải giọng bắc, giọng miền nam, mà là tiếng miền trung nằng nặng. Địch? Thám báo?! Gã cứng người chờ tiếng đạn nổ trong đêm. Không có tiếng nổ nào cả, chỉ thấy hơi lạnh của nòng súng áp sát thái dương.
…..

(Còn tiếp)

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


…..
       (Tiếp theo)

       Họ rời khỏi chiếc hang bên suối đã được hơn mười ngày. Thằng Đán với chiếc ba lô của Lừ chứa đồ đạc tư trang của hai đứa, thắt lưng đeo chiếc bi đông nước. Thằng Lừ đi phía trước, tay cầm chặt con dao rừng không biết đã lấy được ở đâu và chuẩn bị từ bao giờ. Chiếc ba lô của thằng Tiệm - từ lâu đã là của thằng Đán, chứa mọi thứ đồ ăn, hai cơ số đạn, cộng với bốn quả lựu đạn đeo gọn trước bụng. Hỏa lực như thế xem ra cũng tạm ổn. So với trọng lượng đồ đoàn thằng Đán đang đeo trên mình, chiếc ba lô thằng Lừ trước bụng, gùi thịt sấy cõng sau lưng, có lẽ phải nặng gần gấp ba. Thằng Đán lúc đầu cứ đòi san bớt ra cho nó mang, song thằng Lừ không chịu: "Mày sao khỏe được bằng tao. Cứ đeo vậy đi, số thịt chỉ còn ngót chục cân ngày qua ngày sẽ vơi đi dần. Khi nào sức khá hơn, tao sẽ san bớt sang, đừng có ngại". Thế là, với khẩu CKC báng gập đeo vai phải, tay trái nắm con dao rừng nó đi trước mở đường. Họ bỏ mọi thứ đường mòn, và tự mở lấy đường xuyên qua khu rừng già. Đi đến đâu, thằng Đán đi sau lại kéo một cành cây rậm lá xóa dấu vết, làm đúng theo cái cách đi rừng của người Mông mà thằng Lừ hướng dẫn cho. Cho đến lúc này, sức nó đã khá hơn mấy hôm trước rất nhiều. Vận động vừa phải và ăn uống có chất đã giúp nó mau hồi sức. Riêng vết thương trên mặt, nó vẫn phải tiếp tục dưỡng thương bằng cách đắp lá, cứ vài bữa lại thay loại lá khác hoặc bớt đi lá này, thêm lá kia theo chỉ dẫn của thằng bạn đồng hành. Lừ bảo: "Mày kiêng được càng lâu, chịu khó đắp thuốc được càng nhiều thì vết thương càng lành lặn một cách chắc chắn. Việc này không vội được". Thằng Đán tăm tắp nghe theo và của đáng tội, mỗi lần thay băng, tranh thủ soi khuôn mặt lên vũng nước dưới chân, nó công nhận rằng phải từ từ. Trông một bên mặt của nó vẫn còn khiếp lắm, đến nó còn thấy hãi nữa là người khác. Duy có điều làm nó đỡ đi một chút là hai hàm trên và dưới bên phải bị mất đến hai phần ba số răng đã không còn tấy đỏ, đau chói. Nhai bằng lợi trệu trạo không còn thấy khó ăn như những ngày đầu. Việc ăn uống nhờ vậy mà đỡ hơn nhiều. Công bằng mà nói, sức nó hồi phục được tới hơn tám phần so với hơn mười ngày trước. Số lương khô và thịt hoẵng giúp hai đứa giữ được sức, thêm được sự dẻo bền, song thằng Lừ vẫn không yên tâm. Nó bảo: "Khi nào số lương ăn này vơi non nửa, ta sẽ phải đi lệch hướng đi đôi chút để tìm kiếm thêm đồ ăn dự phòng". Vẫn theo cái cách đã làm trước đây, nghĩa là phải dành thời gian tìm kiếm các kho chứa bí mật giữa rừng mà bộ đội ta găm lại trên đường hành quân. Phía Tây được thằng Lừ xác định bằng cảm quan sống trong rừng từ bé của nó, ngoài định hướng bằng ánh sáng mặt trời, còn bằng cả dáng cây, những bướu lồi, bướu cụt trên thân cây lâu năm, rồi vòm lá, đường đi của thú hoang…Họ đi trong yên lặng, đầu óc và mọi giác quan căng lên cảnh giác. Ngoài tiếng dao phát cành mở lối gọn sắc của thằng Lừ ra, hai đứa không trao đổi gì nhiều. Cần thì dừng lại, thì thào to nhỏ lại đi tiếp. Cứ thế ngày đi, đêm trèo lên tán cây rừng nghỉ. Với cái cách đi như thế, mỗi ngày chúng chỉ dành được tám chín tiếng đồng hồ là cùng cho việc tiến về phía trước. Họ cũng không cần phải vội vàng, vì sự cảnh giác va chạm địch cũng có mà vì để dành sức đi nhiều ngày cũng có. Việc ăn uống thì khỏi phải nói, nhanh gọn, dè sẻn và vừa bụng. Nước uống thì rất dư dật. Thằng Lừ biết rất nhiều nguồn nước tự nhiên trên các búi dây leo chằng chịt, trên các hốc cây đọng sương hoặc nước mưa dọc đường. Chiếc bi đông cứ vơi đi lại đầy. Chỉ vất vả với lũ vắt. Cứ mỗi khi phải vượt qua rừng khộp hoặc tre luồng là vắt theo rào rào như dơi, sóc chuyền cành. Đầu, cổ, tay chân, bất cứ chỗ nào hở lộ da thịt là quay đi ngoảnh lại đã thấy chúng bám vào. Thằng Lừ phải vận hết kinh nghiệm chống vắt, kiếm nhựa lá rừng thích hợp bôi lên da thịt mới hạn chế bớt được vắt cắn. Thàng Đán thì vất vả hơn, vì ngoài việc băng mặt không kín được, lại không thể bôi sát những lá cây lạ như thằng Lừ. Có thứ lá nó bắt chước bạn sát lên da là ngứa rát không chịu được, từ bé nó đã là đứa dữ da nên đành chịu trận. Cứ thấy vắt bám vào da chỗ nào là gạt chỗ đó, không kịp thì tự lũ vắt ngậm no máu rồi nhả ra. May mà, những trận chạm vắt như thế không nhiều và không thường xuyên. Con đường hai đứa mở ra ít nhiều cũng không vướng vào những khu vực như vậy. Phần lớn rừng già Trường Sơn là cây lâu năm, nào gõ, nào máu chó, trám, lim vạm vỡ, rậm rạp. Vả lại, mưa rừng đã bớt hẳn mấy ngày nay, trời có vẻ  khô nóng hơn khi tiến về phía Tây.
       - Im lặng!
        Thằng Lừ gắt khẽ, tay kéo thằng Đán nằm xuống. Chưa kịp quan sát kỹ, thằng Đán đã thấy thằng Lừ dán chặt người xuống đất, trườn nhanh về bên gốc cây gõ cỡ hơn vòng tay ôm bên trái. Rồi rất nhanh, nó leo lên phía trên, tay ngoắc ra hiệu cho thằng Đán lên theo. Cái tai thính tiếng rừng già của thằng Lừ quả rất lợi hại. Từ hai chạc cây trên cao, nấp kỹ trong đám lá rậm rạp, thằng Đán nhìn thấy phía xa, cách vị trí hai thằng đang nấp kín trên cây cỡ tám chín trăm mét có mấy bóng áo rằn ri đụng đậy. Bốn thằng. Phía sau, chắc còn nữa. Bọn thám báo! Thằng Lừ nhăn mặt ra hiệu nằm im, không được để lộ vị trí. Phía dưới đằng xa, bọn thám báo dò dẫm từng bước. Chính chúng cũng ngại chạm mặt đối phương. Để ý kỹ, có một thằng lưng đeo máy thông tin, chiếc cáp nghe gắn chặt hai bên tai nó và miệng thì mấp máy liên tục. Bọn này là bọn đi tiền trạm. Bọn phía sau mới nguy hiểm. Bỗng dưng, mấy thằng đứng quây lại, áp lưng chĩa AR15 ra bốn phía. Có tiếng động đằng xa, một con nai rừng phóng vọt qua, chạy như tên bắn trước mấy mũi súng. Không thấy chúng phát hỏa. Chỉ thấy cả bọn chuyển qua hướng đông bắc, từ từ chuyển dịch. Trên cành cao, hai đứa bọn thằng Đán áo xanh lẫn trong màu lá, im phắc. Trời đã cuối chiều, chắc mấy thằng thám báo nhận được lệnh tập kết, rút quân. Thằng Lừ nhẹ nhàng trườn đến bên thằng Đán, lúc này mặt mũi trắng bệch, hai bàn tay bấu chặt đến đỏ cả đầu ngón tay lên cành ngang. "Không xuống bây giờ. Nằm yên đấy, nghỉ luôn trên này qua đêm. Chờ chúng rút xa, vận động lên phía trên cao kia, giăng võng nghỉ!" Thằng Đán nhìn Lừ bằng đôi mắt đã chực dại đi, lập bập gật đầu ra ý hiểu. Sau sự cố bất ngờ ấy, hai đứa không gặp thêm bất cứ tình huống nào nghiêm trọng. Chiến trường im tiếng súng phía trước như nén chặt lại chờ cuộc chiến trở lại gay gắt trên chiến trường B5.   
       Đã cuối mùa mưa chiến trường, trở ngại thời tiết phần nào cũng không mấy gây khó cho cuộc tìm kiếm đường về đơn vị của hai con người tình cờ gặp nhau giữa chiến trường. Đông xuân bảy mươi hai, bảy ba chiến trận có phần tạm hạ nhiệt do Hiệp định Pa ri vừa được ký kết. Nhờ thế, họ đi được nhiều hơn, nhanh hơn. Chuyến đi bắt đầu từ hơn một tháng rồi, cảm giác về con đường vận tải Trường Sơn Tây đã gần hơn với họ. Lương ăn không còn mấy nữa, thằng Lừ vận dụng hết khả năng tìm kiếm cũng chỉ nhỏ giọt thêm được vài ba ngày ăn. Cái đói có thể đến bất cứ lúc nào. Hai đôi giày đã nát tươm và được thay bằng hai đôi dép lốp đúc dự phòng, vết thương trên mặt thằng Đán ăn da non râm ran. Có vẻ khuôn mặt nó khi lành trông sẽ bớt khủng khiếp hơn. Thằng Lừ có lần đã leo lên chót vót ngọn cây bên đường, phóng tầm mắt hướng về phía trước. Khi xuống đến gốc cây, nó tươi tỉnh bảo thằng Đán: "Chỉ hơn hai ngày đường nữa là bọn mình gặp đường vận tải Tây Trường Sơn." Quả thật, trong một đêm nằm dài trên chạc cây bằng lăng vạm vỡ, cả hai chợt nghe thấy ầm ì tiếng động cơ từ phía xa vẳng lại. Thế là thằng Lừ đã chọn đúng hướng đi. Tuyến đường vận tải Tây Trường sơn đang ở rất gần. Chặng đường vất vả, khó khăn dài dằng dặc và đơn độc hai đứa vừa vất vả vượt qua chợt như lùi đi rất xa, đồng đội của họ đang ở rất gần. Sức khỏe của thằng Đán đã hoàn toàn hồi phục, các thứ mang vác lại đã vơi vợi đi rất nhiều. Ba lô của thằng Lừ mà thằng Đán đang đeo vẫn nhẹ hơn rất nhiều so với chiếc ba lô đựng đồ ăn còn lại và những đạn dược, lựu đạn mà hai đứa có được. Mặt mũi hai thằng giãn ra, cũng bõ công xuyên rừng, vượt suối. Cái cô độc, cái lo chết mất xác dọc đường không còn nữa. Thằng Lừ có vẻ hứng chí, những va đập chiến trường và ước muốn tham gia chiến trận của nó thu hút tâm trí nó còn nhiều hơn cả sức tưởng tượng của thằng Đán. Tuy cũng phấn khích theo, nhưng thằng Đán bụng bảo dạ: "Thôi thì thế nào cũng phải theo. Đây là chiến trường". Hình ảnh thân xác nát bấy của thằng Tiệm lại quẩn quanh trong tâm trí. Dẫu sao, những tháng ngày vừa qua, nó cũng có bạn đường, và hơn thế, vẫn còn sống.
……

(Còn tiếp)

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)


…..
       (Tiếp theo)
       Những ngày sau đó, thằng Đán dần lại sức. Tuy chưa trò chuyện gì được nhiều, nhưng nó đã có thể ậm à thành tiếng trong cổ họng. Ăn uống đã chủ động nuốt được, dù còn trệu trạo và chỉ ăn thức ăn nát, mềm. Gò má bên phải cứ mỗi ngày được đắp lá thuốc một lần, bắt đầu có cảm giác râm ran của vết thương lành miệng. Seo Lừ, người bạn đồng hành của nó mà nó dần biết được tên, là người dân tộc Mông. Nó bảo, tuyệt đối kiêng cử động miệng nhiều, dù đôi môi đã hết sưng, đang mềm mại trở lại. Có vậy vết thương mới mau lành da mà không kéo sẹo quá nhăn nhúm, ghớm ghiếc.
       - Tao đang học năm thứ ba trường Đại học sư phạm Vinh, Nghệ An. Khoa Dân tộc nội trú. Hơn một năm học dự bị đại học, đủ để học bù thêm cho hết bậc phổ thông trước đó. Vậy mà học cũng được gần năm năm rồi cơ đấy. Họ Sồng nhà tao sống khắp nơi dọc biên giới phía Bắc giáp Trung Hoa, biên giới phía Tây giáp Lào. Với người Mông ở Nghệ Tĩnh, tao được học thế là nhiều lắm đấy. Sau này học xong, tao về bản dạy cái chữ, dạy văn hóa cho bà con người Mông. Ông già nhà tao là thày cúng. Thày cúng được dân bản quý lắm, trọng lắm. Tao nói tiếng Kinh với mày lúc này, chứ mỗi lần về với bản thăm ông bà già, tao chỉ nói tiếng Mông thôi. Nói tiếng Mông mới tìm được họ hàng, tộc bản người Mông. Giữ được tiếng Mông là giữ được cộng đồng dân tộc Mông mà. Người Mông tao sống trong rừng không sợ chết đâu, bệnh tật đã có cái lá rừng, còn gặp phải thú dữ cũng biết cách tránh. Tao tình nguyện đi bộ đội cũng mãi mới được giải quyết. Theo chính sách động viên, tuyển quân, người dân tộc ít người được miễn nghĩa vụ quân sự. Phải đề nghị mãi, cơ quan tuyển quân mới nhận đấy. Cả khoa tao học, có hàng chục lá đơn tình nguyện mà chỉ được giải quyết có hai thằng.
       Mà thằng Seo Lừ cũng giỏi thật. Sáng sớm ra đã thấy nó đeo súng vào sâu trong rừng hái lá thuốc, kiếm cái ăn, có hôm lội cả suối để bắt cá. Hôm trước, thằng Lừ còn vác về cả con hoẵng con bẫy bằng cách đào hố, chăng gài dây rừng. Nó hì hụi làm thịt con hoẵng bằng con dao găm của Mỹ hẳn hoi, thứ dao chuyên dụng của bọn biệt động quân, lấy được từ xác một thằng thám báo ngụy. Trông cái cách nó làm, thằng Đán cứ phục lăn. Trong vòng chưa đầy buổi trưa, nó đã gọn gàng lóc thịt rồi đào nhanh một cái bếp Hoàng Cầm nhỏ để nướng chín khô toàn bộ số thịt cỡ khoảng hơn chục cân. Giã nát một đám lá rừng mà thằng Đán không gọi được tên, nó ướp toàn bộ số thịt vào năm chiếc ống luồng to tướng. Khéo léo kết dây mây rừng làm cữ, nó làm như đan kết năm chiếc ống với nhau, lại có cả dây đeo. Nó bảo: "Làm thế này để hôm nào bắt đầu lên đường được, chỉ cần đeo như đeo gùi là đem theo gọn gàng". Mấy bữa sau ăn thử, miếng thịt hoẵng vừa mềm vừa thơm, vừa đậm đà như được ngâm tẩm đồ gia vị. Từ trong thực tế chiến trận thằng Lừ nhận biết rất nhanh dấu vết của những hố, hốc bí mật dọc đường hành quân của các đơn vị đã đi qua. Nó thì thào kể cho thằng Đán: "Bộ đội mình có rất nhiều tuyến hành quân qua rừng già. Họ thường bớt lại một số quân lương, thuốc men lấp xuống hố phòng khi lạc rừng hoặc mất liên lạc với đơn vị. Từ những dấu hiệu đặc biệt truyền lại cho nhau, rất nhiều đồng đội bị thương hoặc lạc ngũ sau các trận đánh được nuôi sống, chữa thương bằng những đồ dự trữ đó trong rừng". Chính một trung đội trưởng kỳ cựu của đơn vị thằng Lừ đã truyền lại kinh nghiệm tìm kiếm đồ ăn, thuốc chữa bệnh do những đồng đội vô danh để lại trên đường vào hoặc đường ra chiến tuyến cho nó. Thằng Đán chỉ biết vậy, mỗi khi thằng Lừ lẳng lặng đem về lúc thì thùng lương khô, lúc thì vài hộp thịt, hộp cá, đựng dầy túi lớn, túi bé hai chiếc ba lô con cóc của hai đứa. Hai đứa bảo nhau tiết kiệm, tích cóp trước lấy một ít quân lương. Khi thằng Đán khỏe lại hẳn mới lên đường.
       Có dễ phải chục ngày sau, thằng Đán mới nhúc nhắc đi lại được. Tuy còn yếu, nhưng nhờ thuốc thang, ăn uống chu đáo nên nó khỏe lại nhiều. Thằng Lừ hướng dẫn thằng Đán cách nhận biết và tìm kiếm lá thuốc đắp lên vết thương. Gã đã có thể tự mình làm thuốc, băng lại vết thương bằng hai cặp băng gạc cứng quèo xanh màu lá rừng sau nhiều lần giặt giũ. Trên người thằng Đán, không có vết thương nào đáng kể ngoài một số nốt bầm tím dần cũng hồi lại màu da. Cảm giác nhớ lại về tai nạn gã chỉ còn nhớ mang máng. Gã trôi theo dòng suối chảy siết một lúc thì lần sờ buộc chặt hai dây bên của chiếc ba lô ngang bụng. Xoay ngược chiếc ba lô trở thành cái phao trước ngực, gã ôm chặt lấy và để mặc sức nước gầm réo của dòng suối cuốn đi, đầu óc hoảng loạn chỉ biết cầu ông bà tổ tiên phù hộ không va đập vào các tảng đá dọc đường. Trôi như thế được một ngày một đêm thì gần sáng, trong cái cảm giác lơ mơ nửa ngủ nửa thức, nó bỗng thấy đầu mình đập mạnh vào một vật gì rất mạnh. Chiếc mũ cối đã cứu mạng sống của nó, nhưng ngay lập tức, một cảm giác đau đớn xói thẳng từ má lên óc. Gã chợt thấy người nhẹ bẫng như bay trong không trung. Trước khi cảm nhận được cú va đập thứ hai thì đầu óc nó đen đặc lại, không biết gì nữa, nó đã bị dòng nước hất văng lên bờ cùng một khúc cây tươm nát tua tủa. Nghe thằng Lừ kể lại, nó gặp gã nằm bất tỉnh bên bờ suối, chiếc ba lô còn nguyên trên người, nhưng má phải bị một nhánh cành cụt xóc thẳng vào. Khi rút được cành cụt ra khỏi mặt nó, thằng Lừ kinh hoàng thấy khuôn mặt rách nát, ngâm nước đã bợt trắng đi của nó. May mà cành cây sau khi phá hàm bên phải, vướng phải hàm răng còn lại bên trái thì hết lực, không xuyên đi tiếp nữa, mà cũng chẳng xoay ngang vào hầu, họng, không làm rách lưỡi. Thằng thanh niên mặc nguyên bộ quân phục rách nát chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã bất chợt lướt qua kẻ bị nạn. Sơ cứu vội vàng cho nó, thằng Lừ vác nguyên cả thằng Đán cùng chiếc ba lô lên chiếc hang gần đó, nơi mới chỉ trước đó nửa ngày, thằng Lừ phát hiện ra khi từ suối tìm cá đi lên. Chiếc hang nhỏ thôi, nhưng cây mọc che cửa hang khá kín đáo, đủ đứng thẳng người và rộng cỡ gần nửa gian nhà. Lên tới nơi, phải vất vả lắm thằng Lừ mới moi được hàng răng hàm phải vụn nát trong miệng nó ra, thực hiện sơ cứu bằng một mũi thuốc kháng sinh và chống nhiễm trùng. Bằng kinh nghiệm đi rừng, thằng Lừ đã cứu sống thằng Đán bằng cả thuôc tây lẫn lá thuốc nhai nát đắp lên vết thương. Không nhiễm trùng, tránh được hoại thư, gã như được sinh ra lần thứ hai. Nghe chuyện người đồng đội không quen biết cứu sống mình, cánh mũi thằng Đán cay sực lên, nó không biết phải chịu ơn thằng bạn trên trời rơi xuống này thế nào cho đủ đây. Về  phía thằng Lừ, việc cứu người như cái lý người Mông phải thế. Nó còn vui lên vì rồi sẽ có bạn đồng hành. Trở nên thân thiết sau cơn hoạn nạn, hai thằng quấn quýt như anh em suốt ngày. Thằng Lừ ngày nào cũng vào rừng, đem về khi thì ít củ mài, khi thì rau rừng, cá suối. Thằng Đán ở nhà, vịn thành hang tập đi cho sớm lại người.
       Sáng nay, thằng Đán đã dò dẫm được xuống suối. Thằng Lừ đi được một lúc thì thằng Đán kéo chiếc ba lô của thằng Tiệm ra xem. Đồ đạc trong ba lô còn nguyên, được bọc cẩn thận trong tấm tăng màu xám. Hai bộ quân trang, một hộp thuốc cá nhân, vài ba đồ dùng lặt vặt. Giữa các lớp quần áo, thằng Đán tìm thấy một chiếc hộp sắt nhỏ, trước chắc là hộp thuốc tây. Trong đó, một gói nhỏ bằng giấy mìn Clây - mo gấp kín sáu tờ bạc Mười đồng, tờ bạc mà cánh thợ chiếu bóng gọi lóng là tờ "Cụ mượt" màu nâu hồng còn khá mới. Chiếc lọ Penixilin chứa một miếng giấy bạc bao thuốc lá Thăng Long. Mở ra, thằng Đán đọc thấy mấy hàng chữ nắn nót rất đẹp: Chu Quang Tiệm, sinh ngày 14 tháng sáu năm 1948. Địa chỉ: đội Bốn làng Chàng Sơn, Thôn Phú Hòa (Làng Ra) xã Bình Phú, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Tên bố: Chu Văn Sơn, 56 tuổi. Tên mẹ: Phan Thị Ràng, 52 tuổi.
       Tay nắm chặt chiếc lọ thủy tinh trong túi, thằng Đán bước xuống suối, vung tay đập nát chiếc lọ vào tảng đá nhô ra bên bờ. Chiếc lọ vỡ vụn, mảnh rơi lõm tõm xuống nước, cuộn giấy bạc văng xuống dòng suối chảy siết mất hút. Trong lòng, gã thầm khấn thằng Tiệm phù hộ cho chuyến đi trước mắt của mình. Giữa không trung đầy ắp tiếng nước chảy rì rào, nó như thấy thằng Tiệm đứng đó, cao lớn, im lặng. Chợt thấy tiếc đã đập vỡ chiếc lọ, giá cứ để dành đấy để gài mảnh giấy nhân thân mình vào, lỡ có làm sao…Nó lắc đầu dứt khoát không muốn nghĩ tiếp nữa, gì thì việc cũng đã rồi… Vội quay người, nó đi gắng thật nhanh về hang, đầu óc trống rỗng.
       Tối hôm đó, trong lúc chuẩn bị đồ đoàn để lên đường sớm mai, dưới ánh sáng leo lét từ ngọn lửa đốt bằng hạt dầu gai thằng Lừ khoe thằng Đán chiếc dây đeo có chiếc nanh cọp nạm bạc, sau lớp ngực áo quân phục: "Này Đán! Tao với mày từ bây giờ sẽ sống chết có nhau như anh em một nhà. Chiếc nanh cọp này là vật thiêng giữ mạng của chúng minh." Miệng nói, tay làm, nó lấy mũi chiếc dao Mỹ khắc lên mặt sau chiếc nanh hai chữ cái "Đ" và "L" bé xíu đứng cạnh nhau. Thằng Đán nín lặng cảm động, thật không ngờ nó lại được ông trời mang tới một người bạn đồng ngũ quý hóa như thế trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm chết người như thế này.
*
*      *

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI (TRÍCH ĐĂNG) (TIẾP THEO)



…..
       (Tiếp theo)
       Trưởng nhóm phát lệnh đi tiếp. Tới kho, nhận mỗi người bốn chục ký gạo, mọi người bắt đầu hành quân về trạm khách thì trời đã gần cuối chiều. Theo chỉ định của nhóm trưởng, cả bọn chia làm ba tốp, mỗi tốp hai người. Việc chia nhỏ nhóm ra để đưa gạo về trạm cốt để phân tán bớt đội hình, không vón lại trên đường, có thể dẫn tới chạm mặt thám báo địch. Thằng Đán và thằng Tiệm tách đội hình đi xuôi triền núi xuống bãi lác dưới thung. Hai nhóm còn lại, một đi tắt lên sườn núi phía Bắc, một cứ thế theo đường cũ đi thẳng. Họ hẹn nhau khoảng sáu giờ chiều sẽ tập kết ở bìa rừng nơi có lán chỉ huy binh trạm. Cái mệt, cái cảm giác đè nặng trên vai của bốn chục cân gạo cộng với súng ống, đạn dược và ba lô trên lưng khiến đôi chân nặng trịch như không buồn cất bước. Đi được gần tiếng đồng hồ, thằng Đán nói với lên phía trước "Nghỉ đã, Tiệm ơi!". Hai thằng tìm một gốc cây hạ gạo và mọi thứ trên lưng xuống. Hai khẩu K44 chụm mũi dựa vào thân cây. Quá mệt, miệng mũi thay nhau thở. Lại khát nữa. Nghỉ được gần nửa tiếng, thằng Tiệm bảo  thằng Đán: "Bi đông cậu hai thằng uống từ sáng đến giờ hết sạch rồi. Cậu và tớ uống cho nốt phần nước còn lại trong bi đông của tớ rồi hai thằng tìm đường xuống suối dưới kia lấy nước suối uống cho mát. Chỉ cần mang một chiếc ba lô của tớ xuống theo thôi, trong túi thuốc còn mấy viên lọc nước." Vũ khí bất ly thân, hai đứa đeo súng lên vai, bỏ chiếc ba lô của thằng Đán và hai bì gạo lại, tìm đường lần xuống khe suối phía dưới. Lần xuống chân núi, khi tới gần bờ suối phía dưới, thằng Tiệm quàng cả hai chiếc bi đông lên cổ, quăng chiếc ba lô lại phía thằng Đán: "Cậu cảnh giới, tớ xuống!". Vừa ôm gọn được cái ba lô đồng đội ném lại, thằng Đán chợt nảy tung người. Phía thằng Tiệm vừa lao xuống, một vầng sáng chói mắt bùng lên, kèm theo một tiếng "Ục" đục gọn. Phía trước thoáng thấy thằng Tiệm gục xuống. Sức ép của trái mìn lá hất thằng Đán văng về phía sau, tay còn đang ôm chặt chiếc ba lô. Thằng Đán chỉ kịp thấy mặt mũi mình tối sầm, nó ngất lịm.
       Lạnh và ẩm ướt. Thằng Đán lờ mờ hé mắt. Chung quanh tối đen như mực. Không thấy đau đớn ở chỗ nào cả, chỉ thấy ngực nặng chịch. Đưa tay lên mặt, thằng Đán đụng vào một đám lầy nhầy, ướt nhớp. Không biết giờ giấc lúc này là mấy giờ nữa. Giơ tay lên giữa bóng đêm, nó hét lên không thành tiếng. Thịt và máu, dính bấy, tanh lợm. Nó lập tức hiểu ra mọi sự. Thằng Tiệm vấp phải mìn, một phần da thịt vỡ tung hắt lại phía sau, vương vào mặt nó. Nôn thốc, nôn tháo. Thằng Đán cứ nôn, cứ nôn mãi cho đến lúc cổ họng chỉ còn nhớt dãi khò khè. Nỗi sợ hãi bom đạn bất chợt ập đến. Nó bật dậy vùng chạy như kẻ mất hồn xuống phía dưới, vai còn vương quai chiếc ba lô. Từ trên bờ, nó lao đại người xuống lòng suối phía dưới chân đem theo cả nỗi sợ hãi trước cái chết mất xác của người đồng ngũ. Con suối đầy nước lồng lên, hút lấy nó và chiếc ba lô, cuốn phăng đi. Thằng Đán chỉ biết ôm chặt lấy chiếc ba lô vào bụng, cây súng và hai cơ số đạn rơi đâu không biết nữa. Nó buông trôi người theo dòng nước lũ gầm réo.
       Sáng ngày hôm sau, các đồng đội quay lại tìm hai chiến sĩ không biết vì lý do gì mà cả đêm không thấy về địa điểm tập kết. Họ chỉ tìm thấy một xác chết tơi tả, nát vụn trên đường xuống suối, cây súng K44 gãy nát báng, cơ bẩm vỡ vụn. Hai bì gạo phía trên dốc còn nguyên. Cố nhặt nhạnh cho hết thân xác vỡ nát của người đồng chí xấu số cho vào tấm tăng tìm thấy trong ba lô thằng Đán, mọi người chôn xác người chiến sĩ bất hạnh bên bìa rừng. Ghi dấu lại cẩn thận, tiểu đội tìm kiếm im lặng vây quanh, bỏ mũ chào vĩnh biệt người đồng đội. Cuộc chiến đấu chưa thực sự bắt đầu, họ đã vấp phải mất mát quá lớn. Hai chiến sĩ đi cùng nhau, không biết đích xác ai mất tích, hai hy sinh. Sau nhiều tháng sáp chiến sau đó, đơn vị họ lại bị tổn hao tiếp. Chỉ huy mặt trận quyết định phiên chế lại đơn vị. Cuộc chiến căng thẳng và máu lửa không đủ điều kiện để đơn vị xác minh thật hư, chỉ biết họ đã vĩnh viễn mất đi hai người đồng đội giữa ngút ngàn Trường Sơn.

*
*      *
       Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, thằng Đán cựa mình, mở mắt. Đầu tiên, nó chợt có ý định đưa tay lên mắt che ánh sáng quá lóa, nhưng không cử động được tay chân như ý muốn. Toàn thân nặng chịch, bất động như bị ép dán chặt xuống đất. Sao nó lại ở đây, nó đang trôi theo dòng suối ngầu bọt trắng kia mà. Mà thôi chết, bóng đen nào đổ xuống mặt nó thế này! Nhắm mắt lại và mở ra đến lần thứ ba thứ tư nó mới nhận ra một khuôn mặt lạ hoắc với đôi lông mày rậm hình lưỡi mác phía trên mặt. Thôi chết! Thám báo rồi. Nó cố nhúc nhắc cánh tay, quờ quạng tìm quanh. Súng đâu, đạn đâu rồi. Cố gắng vô vọng ấy khiến nó mất sức, nó lại chực ngất đi, sau khi mắt đổ đom đóm, nổ hoa cà hoa cải. Trong cơn mộng mị đè nén, nó chỉ sợ hãi nghĩ vội được rằng "Địch, thám báo hay hồn ma?! Mà hồn ma nào vậy, thằng Tiệm chết vụn xác rồi cơ mà!"…Nỗi sợ hãi và cơn đau đâu đó trên mặt lại làm nó lịm đi.
       Một thoáng cảm giác mát dịu, mềm mại phủ lên mặt nó, thằng Đán chậm chạp mở lại mắt. Lần này thì con mắt nó đã nhìn rất rõ mọi thứ trước mặt. Một  thanh niên cùng độ tuổi, mặt mũi hiền khô đang ngồi bên nó, tay cầm chiếc khăn mặt màu xanh xám sấp nước dấp lên mặt gã. Khuôn mặt sắc gọn, đôi mắt sáng rực dưới cặp lông mày thật là đen và rậm rạp. Nước da nâu sậm săn chắc, anh ta mặc bộ quân phục nhàu nát, nghe chừng đã nhiều ngày khoác lên người, nhiều chỗ sờn rách hoặc thấm trắng lớp muối mồ hôi. Chiếc ba lô và khẩu súng nằm kế bên chân. Quân ta rồi.
       - Ôi trời! Cuối cùng thì thằng bộ đội người Kinh bị thương nát tươm mặt mũi này cũng tỉnh rồi. Tao tìm được mày dưới kia, nằm như chết rồi bên bờ suối. Chắc mày may mắn thoát chết, không bị va đập mạnh nhờ chiếc ba lô buộc dây chặt ngang bụng. Ba ngày rồi, sau khi vác mày lên đây, mày hết sốt nóng lại sốt rét. Này uống nước đi! Tao đắp thuốc lên mặt cho rồi đấy. Chịu khó ít bữa sẽ làm sẹo.
       Người thanh niên khéo léo luồn chiếc ống nhựa truyền dịch vào kẽ môi thằng Đán. Lúc này, thằng Đán mới đủ tỉnh táo để nhận diện nơi nó đang nằm. Đó là một hang đá ẩm thấp, không cao, không sâu mà cũng không thật rộng. Trên mặt nó, một lớp những lá lẩu gì vụn bết phủ gần hết phía má bên phải. Băng cứu thương bó gần hết khuôn mặt, chỉ chừa có đôi mắt, hai lỗ mũi và miệng. Nhưng đôi môi thì đang sưng tấy phát tê lên, phồng sưng mọng như hai múi cam. Từ phía trong miệng, thằng Đán cảm nhận được một khoảng trống khá rộng giữa hàm trên và hàm dưới bên phải. Không có cảm giác quen thuộc của hàng răng. Thôi chết, nó mất hết hai hàm răng bên phải sao? Từ trong miệng, qua chiếc ống nhét sâu giữa hai vành môi sưng húp, nó mệt mỏi gắng sức mút nhẹ dòng nước hăng hăng, ngọt ngọt từ đầu ống dây rừng vạt chéo. Dòng nước mát dịu chảy vào họng, truyền cho cơ thể thằng Đán chút nhựa sống mát lành. Người thanh niên dốc ngược đoạn dây rừng, thả vào miệng nó cạn chỗ nước dây leo. Sau đó một thoáng, để thằng Đán nuốt xong hụm nước dây rừng, anh ta lại lúi húi bên chiếc bi đông, rót chút ít thứ nước gì sền sệt. Thằng Đán nhận biết được vị ngọt, bùi của lương khô chiến sĩ. Thì ra nó đang được ăn, hay đúng hơn là mút vào miệng bột lương khô hòa nhuyễn. Dạ dày cảm giác được chất dinh dưỡng rất chiến trận của người lính chiến trường. Nó cảm thấy người mềm ấm hẳn lại, dù việc đụng cựa toàn thân còn rất khó khăn.
       - Chịu khó nằm yên tao tiêm thêm cho mũi kháng sinh nữa. Ống này là ống thứ tư, sau ba ngày mày mê mệt chẳng biết gì. Tao bó thuốc lá rừng cho mày đấy, thằng bộ đội người Kinh ạ. Không thấy đau nữa phải không? Sơ cứu cho mày ngay sau khi đặt mày lên đây, phải khó khăn lắm tao mới gắp được đám răng lổn nhổn, bê bết máu trong mồm mày ra ngoài. Dùng ống tiêm cắm cho mày một mũi chống nhiễm trùng vào vòm miệng, đắp lá lên mặt rồi mà tao vẫn cứ lo mày bị hoại thư. May quá, miếng thuốc ông bà truyền cho cũng cầm máu và cứu được cái khuôn mặt mày. Chỗ má rách nát rồi sẽ đổ sẹo, nhưng thế là tốt lắm đấy, thoát khỏi cái chết rồi. Nhiễm trùng chỗ nào, chứ nhiễm trùng vùng mặt là chết nhanh lắm.
       Thằng Đán chỉ biết chớp mắt ra hiệu mình nghe và hiểu được câu chuyện của người đồng đội. Băng bó thế này, không biết rồi còn ăn uống, nói năng gì được không. Lại chỉ nghe tiếng người thanh niên thì thầm:
       - Đơn vị tao vừa bị một trung đội thám báo tấn công tuần trước. Bọn ngụy gọi máy bay Mỹ đến tăng cường hỏa lực yểm trợ khiến đại đội tao bị chia cắt làm nhiều mảnh. Thương vong và hy sinh nhiều lắm. Tao bị sức ép nằm chết ngất bên mấy thi thể anh em cùng tiểu đội đã hy sinh. Đơn vị chủ động rút khỏi trận địa lúc chập tối, không kịp làm công tác thu dung thương binh, liệt sĩ. Tao tỉnh dậy giữa đêm, một mình tìm đường theo đơn vị. Và rồi, lạc hướng tìm. Từ đây đến trận địa hôm trước cách xa quãng ba, bốn ngày đường rừng rồi. Gặp mày, thế là tao có thêm đồng đội. Đợi mày khỏe lại, chúng mình sẽ tìm đường về với đơn vị. Lạc rừng, lạc hướng, lại mưa như trút mấy hôm thế này, việc đi tìm đơn vị thế là bị chậm lại. Nhưng không sao, tao vốn sống với rừng, ăn làm trong rừng mãi rồi, thế nào tao và mày cũng tìm được đường về với quân mình. Cứ đi về phía tây Trường Sơn, khắc gặp được các đơn vị vào hoặc ra.

       "Đi về phía tây Trường Sơn? Tìm đường về với đơn vị?!", thằng Đán lạnh người. Bỏ rơi thi thể tử sĩ, mất toàn bộ quân trang, quân dụng. Trong điều lệnh chiến trường, đó là những tội rất nặng có thể phải ra trước tòa án quân sự. Không thể như thế được! Có tàn phế suốt đời cũng không thể thế được. Nhưng đi theo người đồng đội mới này, lại có thể sống sót. Như thế cũng còn hơn nếu chỉ một mình chết rũ chết héo giữa rừng già Trường Sơn. Sao thằng này nó tốt với đồng đội và gắn bó với trận chiến thế. Nghĩ chỉ được đến vậy, nó lại cứng người chịu một cơn đau mới. Cơn đau từ vết thương chưa kịp gắn miệng. Thôi, cứ biết vậy đã.
......
(Còn nữa)