(Kỳ 17)
(Tiếp theo kỳ trước)
.......
La cà chơi chợ người Mông, Dao trở thành
thú vui những ngày nghỉ ít ỏi hiếm hoi của bộ đội biên phòng miền Tây. Thung
lũng phía xa xanh ngắt một màu xanh nương lúa nương ngô. Theo vận động của cán
bộ và bộ đội biên phòng, người Mông nay đã trồng mận tam hoa và đào không hạt
phủ kín nương đồi thay cho cây thuốc phiện xấu xa.
Chợ phiên là nơi gặp gỡ, vui
chơi của các tộc người Mông, Dao vùng biên. Đi chợ vui như đi hội. Nỗi nhớ nhà,
nhớ quê trong lòng cánh chiến sĩ biên phòng như dịu lại. Rủ nhau sà vào quán
chợ, mấy anh em ăn uống vui vẻ với bà con dân bản. Hương rượu ngô chuyền quanh
quyện dính cổ họng, những nắm xôi thơm nồng hương nếp nương. "Cái bộ đội
hôm nay vui với chúng tao thật say mới về đấy! Không say không được đâu!".
Ngất ngây vậy, nhưng đám lính biên phòng
thừa sức ra về khi buổi chợ vắng dần người qua lại. Cậu y sĩ của đồn, quê vốn
vùng rượu Làng Vân nổi tiếng Bắc Hà, từ lâu đã "gà" được cho họ cách
uống rượu chống say với người Mông. Một trong mấy chiếc bi đông nước bên người
là…một ít dầu ăn. Trước lúc vào chợ, họ đã tranh thủ tợp mỗi người một tớp.
Rượu trôi xuống đến dạ dày cứ là "lênh phênh" không tới đáy, bám
không dính nổi vách ruột, say sao được?! Cái mánh ấy trở thành "bửu
bối" của đám lính trẻ khi đi chơi chợ phiên vùng cao. Cứ là "cười
tươi" đến hết buổi chợ.
Đường về đồn xa thế mà đi mãi cũng về đến
nơi. Điểm danh tối xong, thằng Tĩnh không ngồi xem phim truyền hình. Nó tranh
thủ viết thư cho bạn gái ở quê, kể về buổi chợ vùng biên đầy ắp sống áo đủ màu
và tràn trề những rượu là rượu.
Sáng sớm hôm sau, giấc ngủ đêm không mộng
mị của thằng Tĩnh kết thúc khi tiếng kẻng trực ban vang lên. Tập thể dục, vệ
sinh cá nhân xong, cùng tổ ba người gã lên đường tuần biên với trang phục, vũ
khí gọn gàng. Trên đỉnh núi cao, sương vắt ngang trắng đục như dải lụa trắng
giữa trời. Hơi thở như những đám khói mờ ngang mặt. Nhận nhiệm vụ và báo cáo
trực ban xong, họ xuất phát.
Sương đọng thành giọt trên cành lá bên
đường, ngọn cỏ dưới chân. Cái cảm giác sương sớm ngái mùi rừng keo dọc đường
biên rưng rưng trong mắt. Dưới thung, đâu đó giữa bản người Dao khói bếp như
sợi chỉ trắng vắt vẻo giữa màu xanh mờ đất trời sương giăng rụt rè bốc lên cao.
Người Mông, người Dao dậy thật là sớm. Họ nắm chút xôi, gói thêm miếng thịt khô
muối đặt vào cơi (giỏ mây) buộc ngang dây lưng, tay cầm dao, lưng đeo gùi cứ
vậy lên nương. Tổ tuần biên mỗi nhóm ba người, súng khoác vai lầm lũi bước. Dọc
đường thi thoảng lại gặp một tốp đồng bào Mông đi làm nương. Thằng Tĩnh đi sau
cùng của tổ ba người. Họ đã rời khỏi đồn hơn hai tiếng đồng hồ. Chợt nó nghe
vẳng đâu đây dưới lòng khe vách đá lởm chởm cạnh đường có tiếng rên nặng nề,
nghẹn nước. Nó hỏi với lên phía trước: "Các cậu có nghe tiếng gì
không?" Giữa yên lặng cây rừng, mọi người dừng bước căng tai nghe ngóng.
"Đó, tiếng rên phía dưới đó". Hùng, tiểu đội trưởng khẽ giọng, tiếng
đanh chắc: "Rồi, nghe rồi! Cả nhóm dàn rộng, theo phương án tác chiến đã
quy ước, chỉ khi thật cần thiết mới nổ súng. Đồng chí Tĩnh tiếp cận mục tiêu,
chúng tôi yểm trợ." Không khí chợt căng lên như dây đàn, cả nhóm nhẹ nhàng
từng người theo đội hình chiến đấu lom khom lần xuống. Lòng khe tối om ẩm ướt,
nghe rõ tiếng nước óc ách. Càng đến gần mục tiêu, tiếng rên càng rõ dù rất yếu.
Chợt thằng Tĩnh khựng lại, cách nó khoảng chừng mươi thước, thân một thanh niên
người Mông nằm sấp sóng soài nửa chìm nửa nổi sát mép nước. Một vệt máu thẫm
đen loang trên lưng áo màu chàm sẫm. Đầu người thanh niên gối lên hòn đá, mặt
nghiêng về phía ba người. Mắt nhắm nghiền, đôi môi tái nhợt. Quanh khe suối
không thấy dấu vết va chạm. Kẻ thủ sát đã theo lòng suối lội đi, không để lại
dấu chân trên bờ. Trông tư thế người bị thương, có thể đoán anh ta bị chém hoặc
đâm từ phía sau, thời gian bị sát hại ước khoảng hơn ba tiếng trước đầu giờ
sáng. Thằng Tĩnh bước lại gần, tay vẫn nắm chặt khẩu tiểu liên AK-47 báng gập
hướng về phía trước. Người bị nạn còn sống, tuổi mới xấp xỉ đôi mươi, nhưng
chắc phải yếu lắm vì mất máu. Đưa mắt về phía đồng đội, gã ra hiệu tiếp tục yểm
trợ rồi dùng cánh tay còn lại lật khẽ người bị nạn. Tấm thân mềm oặt trôi khẽ
theo lực đẩy, hơi thở có vẻ yếu. Khoác vội súng lên vai, thằng Tĩnh ôm lấy
ngang thân người con trai Mông, lấy hết sức bế lên bờ. Đám chiến sĩ sáp lại
gần, mắt vẫn theo dõi cảnh giới xung quanh. Đặt khẽ khàng người thanh niên
xuống lớp rêu ướt cạnh suối, thằng Tĩnh lấy khăn lau lớp máu bết quanh khóe
miệng người bị nạn rồi nhanh chóng dùng dao ngắn xẻ lưng áo sơ cứu. Thấm đẫm
một mớ gạc cho vết thương bả vai trái, thấy lộ rõ một vết chém, có lẽ bằng dao.
Nhát chém với, không trực diện chỉ đủ
lật một lát phần mềm suốt từ bờ vai xuống lưng, chưa đủ chạm tới xương
bả vai. Thân người bị nạn còn ấm, miệng khò khè thở yếu ớt. Băng vội vết thương
cho anh ta bằng nguyên cả hai cuộn băng gạc lấy trong túi thuốc cá nhân. Với sự
giúp đỡ của đồng đội, thằng Tĩnh vác tấm thân mềm nhũn nặng trịch lên lưng đưa
người bị thương lên phía trên. Khe núi tuy hẹp, nhưng không thật sâu và dốc
cũng vừa phải. Ba chiến sĩ biên phòng đưa được người thanh niên lên mặt đường.
Bằng hai thân cây keo mới trồng cỡ bắp tay, họ lót tấm tăng che võng đem theo,
buộc thành chiếc cáng thương. Tiêm một ống thuốc trợ sức và một mũi chống nhiễm
trùng cho người bị nạn. Liên lạc qua bộ đàm với đơn vị cử người bảo vệ hiện
trường và bàn giao lại cho an ninh địa phương, họ lên đường. Tiểu đội trưởng
Hùng khoác hai cây súng, thằng Tĩnh và cậu Khương đặt chiếc cáng lên vai, cứ
cắt rừng xuống thung, tiến về phía có hơn chục nóc nhà của một bản nhỏ người
Mông cách đó chừng dăm cây số đường núi. Vừa tới nơi, từ cuối bản đã thấy có
vài người dân ra đón. Họ nhận ra trai bản cùng thôn, chỉ cho các chiến sĩ gia
đình người bị nạn. Các chiến sĩ được dẫn đến một ngôi nhà trệt tường trình cột
gỗ rộng rãi. Từ gian giữa, một ông già người Mông dáng người đậm đạp bước ra.
Không nói nhiều, ông bình tĩnh chỉ cho các chiến sĩ nơi đặt người bị thương
xuống. Mời các chiến sĩ trở lại ngồi bên bếp lửa gian giữa, ông chậm rãi rót
nước mời mọi người. Tiểu đội trưởng Hùng chỉ thằng Tĩnh: "Già Lừ à, đồng
chí này tìm được thằng em bị thương dưới suối đó".
- Ồ, thằng cháu tốt cái bụng quá! Tục
người Mông ta, ai cứu người trong nhà, người đó là anh em rồi đó. Tao biết ơn
cái bộ đội mà. Mai mốt tao tìm tới nơi mấy cán bộ, xin cho mày làm con cái
người Mông, làm anh em kết chỉ.
Nhìn ông già trạc tuổi bố mình, thằng
Tĩnh thưa khẽ:
- Nhiệm vụ của bộ đội biên phòng cả thôi,
già à. Thấy thằng em vậy, ai chẳng muốn giúp đỡ. Các đồng chí của cháu đây giúp
nhiều, chứ mình cháu sao đưa được thằng em về đây.
Ông già cười hiền, cái cười trên khuôn
mặt như không có tuổi. Góc trái trên trán một vết sẹo mờ kéo dài trượt xuống
sát đuôi con mắt tinh anh. Giọng nói dù còn vương chút thổ ngữ, nhưng người già
này nói tiếng Kinh rất sõi. Thoáng như nhớ ra điều gì, ông nói như dao chặt
cột:
- Hôm nay chúng mày đang đi tuần biên.
Tao không giữ ở lại uống rượu được. Hôm khác ta lên đồn xin phép cán bộ, mấy
đứa mày phải về bản uống rượu với già này đấy. Thằng Sồng Xeo Pử nhà tao trông
mệt thế nhưng nó vốn khỏe lắm đấy. Chỉ ít bữa nữa là nó ngồi dậy thôi. Người
Mông chúng tao, về được đến nhà là sống rồi. Trên rừng không thiếu lá thuốc,
trong nhà không thiếu cách cứu người. Cám ơn cái bộ đội lắm. Tao không giữ chân
chúng mày lâu được. Đi làm cái việc cán bộ nó giao cho đi. Thế nào cũng có bữa
mấy đứa phải về nhà tao uống rượu đấy.
....
(Mời xem tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét