NHA TRANG MÙA THU

NHA TRANG MÙA THU
MẮT BIỂN MÙA THU

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI - TRUYỆN (TRÍCH ĐĂNG) (Tiếp theo)

(Tiếp theo kỳ trước)
……..
       Mấy tháng sau đó, với một khoen vàng mỏng tang được mẹ giúi cho khi lên xe về nhà chồng, con Xoan nhờ ông bố chồng xin được một suất phiếu phân phối mua chiếc máy may Trung Quốc hiệu "cánh bướm" và cất được gian lều nhỏ góc chợ làng, cùng chồng nhận vá may áo quần. Anh cu Đán suốt ngày quanh quẩn cạnh vợ, cũng để  móng tay ngón cái dài ra như đám thợ may trên phố huyện, chịu làm người học nghề của vợ gã, vừa phụ việc, vừa trông hàng. Cuộc sống cứ vậy chầm chậm trôi. Thi thoảng, ông bố chồng đạp xe từ trên phố huyện về làng, đằng sau cái đèo hàng chất ngất ngư giấy bìa. Thằng Đán lại lúi húi miệt mài ở nhà, để quán xá cho con cái Xoan một mình xoay trở. Khi thì bồi cả đống bìa lịch treo tường, khi thì tay bút tay khuôn bôi mấy cái hình cuốn thư, tranh phong cảnh nhăng nhít mà người phố huyện bắt chước trên tỉnh gọi nhại là “tranh bờ hồ”, mà chẳng cần biết đó là bờ hồ gì. Thời đó muốn làm mấy cái đồ ấy phải có cơ quan nhà nước dành việc cho. Bột màu, giấy bìa đâu có bày bán tự do ngoài chợ. Tất tật đều chỉ có trong mấy cơ quan ngành văn hóa mới có, đâu được gọi là “vật tư chuyên dùng”. Vài cái bút chổi đót, chổi sơn, thậm chí tết vội bằng mấy sợi rơm chổi lúa sơ sài, mấy nắm giẻ rách buộc túm lại làm tay dập, cứ khuấy bột màu với ít hồ bột là được vài bát màu đủ nuốt trôi đám tranh, đám bìa lịch ấy. Xong việc, ông bố lại kỳ cạch cuộn, gói đem đi. Cái cửa hàng sách của huyện nơi ông phụ trách sẽ tiêu thụ chỗ “đồ hàng mã” ấy. Đồng ra đồng vào, vợ chồng con cái Xoan cùng bà mẹ cũng đắp đổi không đến nỗi tồi cho nóc nhà dăm bảy miệng ăn, tiền học hành của lũ trẻ, tiền tiêu pha hàng tháng.
       Nhưng rồi, trận đòn chồng đầu tiên đến với con Xoan cũng thật bất ngờ. Bữa đó, qua Tết dễ đến sau rằm tháng Giêng, vào một buổi trời chạng vạng chiều, mưa phùn lất phất thì con cái Xoan có khách bên nhà ghé qua. Thằng Đán hôm đó không ở ngoài quán. Nó theo mấy cậu trai làng đi quét vôi, kẻ khẩu hiệu cổ động thu nộp thóc nghĩa vụ cho văn hóa xã tận ngoài khu sân kho hợp tác gần Đống Cờ. Khách là bà cô họ của con Xoan. Tiếng là bà cô, nhưng đó là gọi theo thứ bậc họ mạc, chứ cô cháu chỉ chênh nhau vài ba tuổi. Sau một hồi vồn vã thăm hỏi chuyện ăn làm, sức khỏe người thân. Chợt bà cô ghé tai con Xoan nói nhỏ: “Chuyện chồng con mày ở nhà nhiều tiếng xầm xì lạ lắm. Có cái nhà anh Khích từ chiến trường được ra ngoài này nghỉ dưỡng đâu như ở mãi tận Tràng, Chũ về thăm nhà cứ khăng khăng rằng mày lấy phải thằng chồng đào ngũ, bỏ ngũ gì đấy chứ không phải thương binh thương bò gì đâu. Hồi vào chiến trường, chồng mày và anh ta đi cùng một đợt. Bặt nhau hơn năm giời, khi bị thương về nằm trạm xá ngoài bắc, có người cùng huyện mình nói chuyện lại với nhà anh ấy như vậy. Ngày xưa, đâu như thằng chồng mày cũng đi công nhân, có việc làm tận trên tỉnh cơ đấy. Người ta gọi nó nhập ngũ từ trên cơ quan, sao khi rời bộ đội lại về nằm nhà là cái lý gì! Bố mẹ mày hơn tháng nay âu sầu ủ rũ chẳng dám ló mặt đi đâu. Liệu mà về thăm ông bà ấy.” Con Xoan ngẩn người rồi lắp bắp: “Cháu cũng chẳng biết được việc gì. Trong nhà thì chẳng được một ai nói cho đã đành, mà người làng có thấy ai nói qua nói lại gì đâu.” Cô nó dài môi: “Ai người ta nói cho mày hay, quân ngoại tộc, ngoại xã, khác máu tanh lòng. Bố chồng mày đang còn công tác trên huyện sờ sờ đấy, lại có vây có cánh, ai người ta dại gì mà vọc miệng vào. Mày nghĩ xem thử, thời bom rơi đạn nổ thế này, trai tráng đi ra mặt trận cả, được thằng nào về biết thằng ấy. Con người ta về được nhà, có thương có tật vậy, ai dám đụng đến. Thương binh thật thì thời này là vua nghe chưa. Đố có ai dám hạch sách gì. Tao nói sao biết vậy thôi, chuyện đồn đãi nghe đâu biết đấy kẻo khổ thân.” Bà cô nhìn con cái Xoan nước mắt ngắn nước mắt dài an ủi vậy rồi quầy quả ra về sợ trời tối ập xuống lúc nào chẳng hay. Con Xoan líu ríu tiễn bà cô họ, rồi thần người ngồi rũ ra bên bàn may. Bất chợt, nó lén nhìn xuống bụng, thở dài. Kỳ rồi không thấy có máu tháng. Ở quê nó, từ cái đận nghe thấy tiếng kẻng báo động máy bay lần đầu tiên hồi dăm bảy năm về trước đến giờ, nhiều đợt thanh niên lên đường ra trận lắm rồi. Thảng hoặc, vài ba trai làng trở về, song cũng không mấy người lành lặn. Họ là thương bệnh binh, được bà con chòm xóm kính nể, chính quyền chăm lo ưu ái, và thành gương sáng cho lớp trẻ noi theo. Còn cái đám đảo ngũ, “B quay” cũng có đấy, song người làng coi chúng như lũ chết rồi. Chỉ có không biết xử thế nào thôi, chứ không nhẽ lót lá dắt tay đuổi cổ chúng ra khỏi làng sao! “Xanh cỏ, đỏ ngực” vốn là cái danh dự, là lời thề của người trẻ lúc đó. Kẻ quay về không chính danh thường bị coi là làm nhục ông bà tổ tiên, làm nhơ nhuốc quê hương làng xóm. Chúng sống ru rú góc nhà, có ra đường cái mặt cũng đổ gục xuống, chẳng dám nhìn ai. Gia đình nào có con cái mắc tội ấy, người trong nhà khổ tâm lắm lắm. Lúc nào cũng len lén, câm nín và nếu có dịp tụ họp nào trong làng, trong họ cấm có dám chường cái mặt ra giữa chốn đông người. Họ tủi hổ, lủi thủi giữa ba bề bốn bên người làng, chịu cái nhìn hắt hủi, ghẻ lạnh như kẻ mắc bệnh hủi. Đi không được, ở chẳng nên, đối với làng xóm kẻ trốn chạy cuộc chiến cứ như cái dằm lim dưới gót chân không làm sao nhể ra được. Đêm tân hôn ngày nào lại lờ mờ hiện ra trong tâm trí nó. Trong đêm đó, cái mặt méo mó, mồm miệng sều rãi rớt của thằng chồng và cái lối làm tình như nuốt sống nó cho đến giờ vẫn còn làm con Xoan rùng mình. Dù nhìn mãi cái mặt ấy rồi cũng quen, nhưng sau lần ấy, con cái Xoan cứ đêm nào phải nằm dưới thằng chồng là mắt mũi nhắm nghiền, mặt ngoảnh đi chỗ khác, trân người chịu đựng cho xong cái phận làm vợ, mặc thằng đàn ông làm cho hết cái việc của con đực rồi lăn kềnh xuống ngáy rền. Hàng đêm như vậy rồi, có lần nào vợ chồng chuyện trò gì với nhau đâu. Chợt nhớ hôm nay là thứ bảy cuối tháng, con Xoan lầm lũi dọn quán. Một bên quang gánh để hàng, vải vóc cắt may, một bên chiếc đầu máy khâu tháo rời khỏi bàn theo nó về nhà. Cái quán, chân bàn máy, chiếc bàn cắt đã có nhà chú Dựa, bảo vệ kiêm thu vé chợ lấy làm chỗ nghỉ đêm trông coi. Ở phố núi này, mấy dãy lều chợ ngày nào cũng họp, sáng thì từ tờ mờ, nắng lên vừa nghiêng bóng thì rã đám, chiều thì phải quá buổi mới họp tới xẩm tối. Để tránh máy bay đánh vào giờ cao điểm mà.
       Về đến đầu sân, thấy chiếc xe đạp "Thống nhất" của bố chồng dựng bên thềm, con Xoan bụng bảo dạ đêm nay nhỏ nhẻ hỏi chồng xem thế nào. Bụng thấy vợi được chút nỗi buồn hồi chiều gặp bà cô để lại. Bữa đó, bố chồng nó lại đem về cả đống giấy bìa, vài bọc giấy xi măng đùm mấy loại bột màu. Song trông ông kém vui, mặt mũi buồn buồn, hai mắt trũng sâu, túi mắt như xệ xuống hơn mọi bận. Bà mẹ chồng thì thầm với con Xoan “Dạo này trên cơ quan thày mày có chuyện hay sao ấy, tao thấy đận này thày mày khác lắm.” Cơm nước xong, ông lại ôm cái đài vào giường nằm sớm, chẳng buồn trò chuyện gì. Thằng Đán bữa đó, kẻ xong nửa cái khẩu hiệu trên bờ tường nhà kho hợp tác, phởn chí cùng mấy thằng bạn làm cút rượu, bát lạc rang trong quán nhà bà Tỏ dưới gốc đa đầu giếng. Xong bữa tối, vừa lên giường thằng đàn ông đã vật ngửa con vợ ra, dận huỳnh huỵch chẳng kể việc thày nó đang nằm chái đầu hồi bên kia, chẳng hiểu đã ngủ hay còn thức nghe đài có nghe thấy gì hay không. Con Xoan lần này nghe có vẻ mềm người hơn mọi bận, để thằng chồng xong việc thì thào: “Tôi có chuyện muốn nói với nhà đây”. Thằng chồng đã nằm quay lưng lại với vợ, ậm ừ: “Hôm nay mày dở tính làm sao thế, sao không nói lúc nãy. Mà thôi, nói cái gì thì nói mau đi, tao buồn ngủ lắm rồi đấy!”. Nghe cái giọng cục cằn của thằng chồng, con Xoan định nói việc có mang trước lại thôi. Cứ hỏi chuyện kia đã. “Thế nhà nó đi chiến trường thương tật thế nào mà không được xét thương binh, bệnh binh gì sất? Kể mà được là có khối tiêu chuẩn đấy”. Nhoáng cái, chưa kịp hiểu đầu đuôi ất giáp gì, con Xoan đã thấy bàn tay nhớp nhúa mồ hôi của thằng chồng bịt chặt mồm miệng mình, bên tai có tiếng rít khẽ: “Tổ cha con đượi, ai dạy mày nói vậy. Bố truyền đời cho mày biết, mày nói thêm lần nữa những chuyện thế này, ông bóp chết.” Mới nghe có vậy, con Xoan đã cong người bởi một cùi chỏ đánh thẳng vào mỏ ác, rồi cả một cơn mưa những đấm những đạp, những cấu véo vào ngực, bụng, cả bụng dưới, cả đùi ngoài đùi trong, cả giữa háng đến mụ cả người. Mồm bị bịt chặt nên nó chỉ ú ớ được vài tiếng rồi vừa sợ vừa đau quá, nó ngất xỉu đi. Chỉ đến khi thấy con vợ nhũn như dẻ khoai dưới đầu gối mình, thằng chồng mới hốt hoảng ngừng tay, nằm vật xuống giường thở hồng hộc. Đến gần sáng, khi cái lạnh từ chân đồi sau lưng nhà thấm vào, con Xoan mới tỉnh lại. Giữa cái lạnh lẽo dở đêm dở sáng, nghe phía chái bên kia nhà, tiếng bố chồng nó lụ hụ ho khan, giở mình nặng nề. Thi thoảng, xen vào tiếng thở dài cố nhịn của bà mẹ chồng chứng tỏ họ có biết trận đòn trong đêm con cái Xoan vừa hứng chịu. Vào lúc gà gáy sáng, trời còn chưa rõ mặt người, ông bố chồng đã dắt xe đạp lên huyện. Sau lúc ông đi, người nhà để ý thấy bát hương trên bàn thờ, có thêm nén hương ông cắm còn ngun ngún khói. Trận đòn đau làm con vợ thằng Đán bỏ buổi chợ, nằm bệt. Giữa buổi, con Xoan hốt hoảng thấy bụng dưới rút quặn lên, chút máu đen rỉ ra giữa háng. Bà mẹ chồng hốt hoảng gọi người võng ra trạm xá xã, con Xoan thế là không giữ nổi cái thai đầu. Thằng chồng nó, mặt xạm đen lại, cả ngày ngồi thu lu góc hè chẳng nói chẳng rằng. Sáng sớm ngày hôm sau, khi con Xoan và bà mẹ chồng còn đang trên trạm xá xã, thằng Đán lặng lẽ ra khỏi nhà rồi chiều tối và cả vài ngày sau không thấy nó quay về. Dễ đến vài tháng sau, mới thấy người làng nhắn về là có thấy thằng Đán đang đập đá trên xí nghiệp đá cuối huyện. Trận đòn đêm từ đó, không chỉ có vậy mà thường xảy ra mỗi khi thằng chồng say máu, đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hồn cho con Xoan, mãi đến tận sau này.

*
*    *

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI - TRUYỆN (TRÍCH ĐĂNG) (Tiếp theo)


(Tiếp theo kỳ trước)
……
       Khi cái Xoan thay lại bộ quần áo mặc thường ngày xuống bếp cùng mấy bà già lo dọn bữa cỗ cưới thết đãi người trong họ thì nó mới biết nhà chồng cũng không đông người gì. Ngoài ông bố, bà mẹ chồng ra thì nó là dâu trưởng. Mấy cô cậu em chồng đứa thì mới lớn, đứa còn đang tuổi đi học, cỡ dăm ba người. Ông bố chồng có khuôn mặt hiền lành nhẫn nhịn,  mắt sâu mũi thẳng trông có dáng cán bộ thoát ly nhưng tịnh không mấy khi thấy ông cười. Đôi mắt thoáng có sắc u tối, buồn bã. Bà mẹ trông có vẻ già trước tuổi, dáng vất vả, người thấp nhỏ khép nép. Bữa cỗ cưới cũng không to tát gì, vài ba mâm với dăm món ăn được nấu nướng cẩn thận và cỗ món hơn ngày thường. Ông bố chồng, chồng nó và mấy ông già trong họ ngồi mâm trên, đặt trên chiếc giường cánh quạt duy nhất trong nhà. Bà mẹ chồng, mấy bà cô, bà dì, cô con dâu mới cưới và lũ trẻ con lau nhau ngồi ba bốn mâm dưới, mâm bát để cả dưới nền đất nện nứt nẻ, người ăn ngồi lên mấy cái đòn kê, gộc tre, chổi lúa…Bữa cơm không mấy ồn ào, đám đàn bà trẻ con ăn xong trước dọn mâm rồi lui. Mâm trên mọi người ăn uống chậm rãi, thỉnh thoảng mới thoáng nghe vài câu chuyện đưa đẩy. Trong gian chái nhỏ đầu hồi, từ nay là buồng riêng của vợ chồng nó, cái Xoan căng tai lắng nghe mà tịnh không thấy tiếng chồng đâu cả. Mặc dù chưa được nghe lời nói nào của anh ta với mình, song nó đoán biết được vì thấy toàn giọng người già trao qua đổi lại với nhau lẫn giữa tiếng thìa bát lách cách. Xong bữa, con Xoan và hai đứa em gái chồng dọn dẹp mâm bát xuống bếp, mấy đứa trẻ con xúm vào mút mát thêm chút đồ ăn thừa thì trời tối sụp. Họ hàng chú bác cô dì, anh chị em họ về dần hết cả. Nghe cữ đã hơn bảy giờ tối, tiếng loa chiếc bán dẫn để trên ban thờ của ông bố chồng đã bắt vào “câu chuyện cảnh giác” được một lúc. Gian giữa nhà trên, chiếc đèn dầu cao chân được treo trên chiếc quang tết bằng dây thép móc lên xà nhà hắt ra sân chút ánh sáng vàng mờ.
       Nghe tiếng mẹ chồng gọi, con Xoan vội ra ngoài gian giữa. Trên bộ bàn ghế tre, nó thấy ông bố chồng ngồi lặng lẽ bên chiếc điếu bát màu da lươn. Chồng nó ngồi phía đối diện, sát góc trong cạnh chiếc hòm gian đựng thóc, phần còn lại của khuôn mặt lúc đám cưới bị bàn tay che khuất giờ mới lộ rõ. Con Xoan bước vào, nhìn sững thằng chồng rồi đứng chết lặng đầu ghế. Trước mắt nó, một bên mặt người chồng nhìn không giống với bên kia. Một vết sẹo sâu hoắm găm giữa má làm khuôn mặt thằng đàn ông bị kéo lệch xuống. Xương hàm phía dưới nhìn như bị vặn lệch đi, sau làn da má phải không cần nhìn kỹ cũng đủ biết số răng bên trong không còn được mấy chiếc. Có lẽ vì vậy mà con mắt bên phải như bị đặt sai chỗ, trông vừa dài dại, vừa gian trá, ác độc. Không còn sức để làm gì hơn, nó sụm xuống mặt ghế, và nín lặng. Nó xấu xí, đen đủi kể có lấy được người đẹp đẽ tài cao thì cũng chỉ như “đũa mốc quài mâm son”, nhưng phải sống suốt đời với một khuôn mặt dị dạng như vậy thì chưa bao giờ nó dám nghĩ tới. Không khí chết lặng, nghe phía chái nhà bên kia, tiếng thở dài của bà mẹ chồng dù cố nín mà nghe sao nằng nặng. Con Xoan không khóc được, mà có muốn nó cũng chẳng dám. Trong ngôi nhà này, dẫu sao vào lúc này nó vẫn còn là người lạ, thân cô thế cô. Thời gian như dài ra, chờ đợi. Mãi rồi nó mới nghe thấy tiếng ông bố chồng nói, giọng nhẹ bấc:
       - Tôi mong nhà chị cả đừng có buồn quá. Thật tình tôi chẳng muốn thế này. Nó đi chiến trường, giữa mũi tên hòn đạn mà chỉ sơ sẩy vậy cũng còn là đại phúc. Trai lớn có vợ, gái lớn phải gả chồng. Đũa có đôi, chim có cặp. Tôi cần phải nói để hai vợ chồng biết thế để sống sao cho có phận. Thời buổi bom đạn, sống chết bất thường này giữ được mạng sống rồi cũng phải biết vo cho tròn cái bổn phận. Làm thế nào thì làm, cố mà thu xếp ăn ở cho có trước có sau, có trên có dưới. Ông bà bên nhà chị, do công tác xa nhà mà tôi chưa có lúc sang gặp được. Nhưng rồi thế nào cũng có dịp gặp nhau, tôi chắc ông bà thông gia cũng thông cảm. Từ nay, chị là dâu con trong nhà, thằng cả Đán liệu mà làm ăn, khi nào dư sức muốn ăn ở riêng tây tôi cũng cho, không có ngăn. Song lúc này, khi tôi còn vắng nhà, anh chị liệu mà chăm sóc gia đình, góp công góp sức cùng bu anh gìn giữ nếp nhà. Làm ăn sao cho nó phải đạo, tằn tiện phụ giúp nuôi các em đừng để phải thiếu đói. Mai tôi lên cơ quan, thi thoảng tôi về, có việc gì tôi tìm cách thêm cặp cho. Tối nay, hẵng biết vậy. Vợ chồng liệu mà sống với nhau cho vui vẻ.
       Ông chỉ nói vậy rồi đứng lên với tay vặn nhỏ bấc ngọn đèn dầu, nách cắp chiếc đài bán dẫn "Xiêng Mao" lững thững đi vào buồng ngủ, không để ý tiếng thằng con lí nhí vâng dạ. Gian nhà im phắc, nghe rõ tiếng ông ngả lưng xuống chiếc giường tre cọt kẹt. Trong bóng tối, vợ chồng con cái Xoan ngồi cứng người, chẳng đứa nào nói với đứa nào lấy một câu. Mãi sau, thằng chồng đứng lên, con Xoan theo sau khẽ khàng bước vào buồng chái. Trong gian buồng ẩm ướt, trên chiếc giường tre có trải chiếc chiếu viền cạp điều, bộ màn đôi nhuộm nâu, thứ được xem là sang trọng thời đó, trong ánh đèn dầu nhỏ như hạt đỗ, con Xoan cứng người câm lặng chịu đựng thời khắc giã biệt đời con gái. Suốt đêm, bên thằng chồng ngáy to như kéo gỗ, con Xoan mới để nước mắt tràn ra ướt đẫm chiếc khăn tay nó mất hơn ba tháng trời thêu thùa vụng về hình đôi chim câu và hàng chữ hạnh phúc run rẩy bằng chỉ thêu màu vàng.
*
*      *
……
(Còn tiếp)