NHA TRANG MÙA THU

NHA TRANG MÙA THU
MẮT BIỂN MÙA THU

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ MANG NỖI NHỤC TRUYỀN ĐỜI - TRUYỆN (TRÍCH ĐĂNG) - (Tiếp theo kỳ trước)


…..
       Kể như mới đó thôi mà dễ cũng ngót vài ba chục năm trôi qua rồi còn gì. Ngày ấy, con cái Xoan – tên thời con gái của vợ lão Đán- không thuộc loại đẹp khôn gì trong làng. Gia cảnh nhà nó thuộc loại nghèo hèn, bố mẹ không có của nả thừa kế gì từ hai bên gia đình. Ông bố  làm nghề thợ may, mắt toét viền điều nhoèn dử suốt ngày lọc cọc bên chiếc máy may Singer cũ tàng chẳng thu được mấy hào bạc mỗi phiên chợ. Bà mẹ và hai cô con gái nhỡ thì ngày ngày theo kẻng hợp tác nhì nhằng xuống đồng cấy hái, lặm lội tay dậm tay thuổng quơ quáo lúc chút cá vụn, khi con cua con ốc, mớ hến mớ tép đắp đổi qua bữa. Thảng hoặc, hôm nào may mắn lắm thì cũng móc được từ túi thiên hạ dăm ba hào bạc góc chợ quê. Cái Xoan người nhỏ thó, đen đủi được học đôi ba chữ cho đến lớp ba, đủ đếm hết số ngón của hai bàn tay rồi bỏ học theo mẹ theo chị mò cua bắt ốc. Lúc thư rỗi, nó lại giúp ông bố thùa vài cái khuy, được cái củ mỉ cù mì nên ông cụ thương hơn con chị. Nhờ vậy mà cái Xoan cũng vọc vạch học được nghề bố vài đường cơ bản của nghề thợ may phố chợ. Quay trước ngó sau mà ngoài hai mươi nó chẳng có  được đám nào dạm chỗ. Cô chị nó phải ngoài ba mươi mới neo được với một anh chàng thợ ngõa góa vợ, đẻ thêm với chồng được mỗn một vịt giời xấu xí rồi tịt ngóm. May mà ả vợ trước để lại cho anh ta hai thằng cu chống gậy nên cô nàng không đến nỗi phải cắp nón áo ra đi. Bố mẹ con cái Xoan thấy chị nó lấy chồng lận đận thế cũng đâm hoảng, ngày ngày liếc xéo con cái Xoan người cứ lép xẹp như con cá rô đực mà lo không biết rồi phận phu thê của nó rồi sẽ ra sao. Ấy thế nhưng vận may dường như mỉm cười với họ khi con cái Xoan hai sáu, hai bảy tuổi chực ế sưng ế sỉa được người xã bên đánh tiếng dạm hỏi. Khi đó, chiến tranh chống Mỹ đang vào hồi quyết liệt. Máy bay B52 của Mỹ quần đảo Hải Phòng rồi Hà Nội. Đêm đêm, tứ phía nhoáng nhoàng chớp lửa hắt về khiến cái huyện miền núi bằng cái nắm tay chỉ có ngót vạn dân ở đây ngày lo đằng ngày, đêm lo đằng đêm vì vị trí của nó quá gần những trọng điểm chiến lược. Mấy tay cán bộ huyện có nhà dưới quê cũng ít đi về, có lẽ do tình hình khẩn trương hơn, phải trực chiến trên cơ quan nhiều ngày. Từ huyện tới xã việc huy động lương thực, thực phẩm, dân công hỏa tuyến, động viên thanh niên vào bộ đội, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ nhiều và căng hơn trước càng làm cho không khí chiến tranh mỗi ngày như nóng hẳn lên. Người dân vùng quê nghèo cũng quen rồi cái cảnh đám trai tráng khỏe mạnh hết lượt này đến lứa khác khoác ba lô ra tiền tuyến. Ở lại với làng quê chỉ còn ông già, bà cả, phụ nữ và trẻ con. Việc nhà con cái Xoan có bà mối tận trên huyện hội phụ nữ dắt díu cho một đám nghe đâu từ chiến trường trở về làm dậy lên trong đám mấy bà ngồi lê lắm chuyện trong làng những đồn thổi, xì xầm. Nào là “khéo mà lấy phải nhà anh què, anh cụt”, nào là “thời buổi này bộ đội về làng giữa thời giặc giã, khói lửa mịt mù thế này, biết đâu…?”. Nhưng cũng có vài ba bà tặc lưỡi “nó thế cũng còn may chán, tưởng làm bà cô rồi!”, hoặc “thôi thì thế nào cũng được, nếu lấy chồng bộ đội, dính chút thương tật, biết đâu lại sướng. Cơm gạo sổ, thẻ thương binh. Có đường, có sữa, có thịt rồi khối đứa có mà ghen với nó suốt ngày!”…
       Chuyện cưới xin rồi cũng đến với con cái Xoan một cách chóng vánh như thời chiến nó phải thế. Gia đình nhà cái Xoan nhận đủ các lễ từ nhà trai, nào vấn danh, chạm ngõ, rồi ăn hỏi, phập phồng chỉ chực chờ ngày đón dâu. Thiên hạ nói sao kệ họ. Con gái đi lấy chồng, lại ở tít tận xã bên, có nói chán nói chê rồi cũng hết chuyện. Quá trưa buổi đón dâu, sau bữa cơm đậm đạp hơn thường ngày của họ nhà gái; bên nhà trai mới sang. Đoàn rước dâu có tới cả chục người, đi bộ có, xe đạp có, đặc biệt lại có cả ông trưởng đoàn được một chú đầu húi cua, da đen bóng chở trên một chiếc mô tô ba bánh màu cỏ úa đến trước làm đám trẻ con cứ nhộn cả lên. Chúng kéo theo đuôi chiếc xe có tới vài ba chục đứa, mắt hau háu nhìn cái vật lạ kỳ cổ quái không mấy khi thấy xuất hiện nơi thâm sơn cùng cốc này nổ phành phành, phun khói đen xì. Ông bố con Xoan phải nói khó với mấy ông tự vệ thôn cho gửi xe vào sân nhà ông thôn đội trưởng, nhờ thằng cháu họ trong đội an ninh vác gậy đứng canh ngoài cổng, mới ngăn được đám trẻ ranh hiếu kỳ tụ bạ sờ mó vào chiếc xe. Ấy vậy mà  lũ con nít cũng cứ bu từng đám bên rặng tre, có đứa còn vắt vẻo trên mấy cây ổi, cây xoan, cây bòng hàng xóm chòng chọc ngó sang, ngậu xị đố nhau, cãi vã nhau về cái xe mãi không biết mỏi mồm. Đám rước dâu ăn mặc cũng tươm tất, thời chiến mà được vậy là nhờ trong đoàn có mấy người dáng vẻ danh giá. Cứ nhìn vào mấy ông diện áo đại cán, vài anh diện quân phục bộ đội còn nguyên gấp nếp, mấy bà sồn sồn áo cánh nâu cổ trái tim viền đăng ten đen, có cả mấy thanh nữ áo sơ mi "xanh xí lâm" cổ cánh sen xòe rộng, tóc bím vắt vẻo sau gáy bằng chiếc khăn tay buộc xoè cánh bướm kiểu thành phố thì biết. Đám con gái trong làng xúm xít trước cổng nhà con cái Xoan, suýt xoa ngắm mấy cái áo lạ mắt, xì xầm chỉ trỏ tìm xem chú rể là ai. Đám khách yên vị trong nhà có tới gần nửa tiếng, mới có tin lọt ra ngoài nhờ đám con cháu ông thợ may chạy ra chạy vào thuốc nước mách lẻo “chú rể mệt do dính chút sốt rét cơn, xin phép vắng mặt”. À thì ra vậy, đám đông ồ lên, thảo nào không thấy anh cu chàng đâu cả, cứ nghĩ oan cho con Xoan lấy phải ông già. Thời này, lấy chồng bộ đội về làng, chuyện đó xảy ra như cơm bữa. Không thiếu đám cưới vắng chú rể như vậy. Cũng phải thông cảm thôi, thời chiến mà. Đám rước dâu cũng chẳng ngồi lâu, họ cần về sớm, tránh cái giờ cao điểm, máy bay máy bò rách chuyện. Cả đám dài thượt thế này lồ lộ trên đường có mà thành mồi ngon cho đám “con ma”, "thần sấm" nó sơi tái. Con cái Xoan hôm nay diện bộ áo cánh màu nâu non cổ tròn, quần sa tanh hoa, tóc bện hai dải vắt vẻo, đầu đội chiếc nón lá choàng lưới ngụy trang, quai màu tím che nghiêng một bên mặt, vẻ điệu đà khác hẳn. Cả đoàn người rồng rắn đi hết đường làng, tới cây đa ngoài ngã ba thì con cái Xoan được ngồi lên cái thùng hình thuyền kẹp bên hông chiếc bình bịch, chạy vọt lên trước, để lại đám trẻ trâu trong làng chưng hửng đứng vón lại bên bờ giếng. Đám rước dâu ai được kèm xe đạp thì lên xe, ai cuốc bộ thì men đường mương, bờ ruộng tắt về hướng xã bên. Đám rước dâu nhanh chóng ấy tới làng rồi đi, khuấy lên cái không khí vốn lặng lẽ trong thôn xóm được phút chốc thì ai lại về việc ấy. Người ta còn mải xuống đồng cày cấy, người không cày cấy thì lo chuyện ăn làm kiếm bơ gạo, củ khoai cho những mấy miệng ăn trong nhà. Với cái Xoan, nhìn làng quê lùi lại sau luồng khói đen của chiếc xe, đầu óc bồng bềnh chưa biết cái phận làm dâu rồi sẽ thế nào. Đã vậy, từ bé đến giờ mới ra khỏi làng, lại cũng là lần đầu tiên ngồi trên cái máy phành phạch này, nó chỉ chực nôn thốc nôn tháo. Rồi cái đận khổ sở ấy cũng qua đi, khi chiếc xe đưa con Xoan rẽ khúc quanh bỏ con đường liên xã chồm chồm vượt qua quãng bờ lô hướng lũy tre xanh ngắt phía tây tiến vào đường làng. Đến trước một bờ giếng thơi, chiếc xe lách vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước ngôi nhà tường trình đất núi, mái lợp lá gồi năm gian dựa lưng vào chân một quả đồi, phía trước cách bức với xóm ngõ bằng dãy hàng rào dâm bụt lúp xúp. Sau lớp rào, một dãy cây găng già dễ chừng cùng tuổi với nếp nhà tỏa bóng mát rậm rạp. Ngó qua, ngôi nhà có dáng vẻ của một nếp nhà gia giáo, có bát ăn bát để, sân vừa đủ rộng, thềm vừa đủ cao, hồi nhà xum xuê một gốc bưởi tướng đang mùa trổ hoa. Góc kia sân, một chiếc bể hứng nước mưa mái cuốn vòm, đứng bên hai gốc cau, cạnh đó một cái giếng đào vanh tròn bởi hàng gạch tổ ong lỗ chỗ màu vàng đất. Xế bên giếng, căn bếp nhỏ với làn khói xanh ngái đùn lên trên mái. Cây rơm ngất ngưởng cạnh bếp và chiếc cối đâm bèo to tổ bố dưới chân báo trước những công việc ngập đầu nào cấy hái, nào lợn gà cho đám đàn bà con gái trong nhà. Một tấm dù to, loang lổ sắc lính căng trùm lên cái sân đất nện khá rộng, xếp sẵn mấy hàng bàn ghế học trò. Chẳng có khăn phủ, cũng chẳng hoa hoét bày vẽ gì, trên mặt mấy chiếc bàn đầy vết mực tím mực xanh xếp hai hàng chén sứ cỡ trung, cóc cáy, cái lành cái mẻ sứt. Mỗi bàn bày vài đĩa bánh quy tròn mà dân chợ huyện quen gọi là “bánh quy gỗ” mặt ngoài dính đầy bột trắng, ngửi qua còn nguyên mùi mọt hăng hắc. Lẫn trong mỗi đĩa lại có hơn chục chiếc kẹo bột bọc giấy xanh đỏ. Thêm vào đám bánh kẹo đó là hai chiếc đĩa nhỡ, chiếc bày dăm khẩu trầu thuốc chiếc bày hai chục điếu thuốc lá cuộn mà đám thanh niên trong làng hay gọi là thuốc “Con gà” bởi thường được đóng trăm điếu vào một gói, dán một cái nhãn vàng thổ ra ngoài, trên in hình một chú gà trống màu đỏ nâu. Cái thứ thuốc điếu đó trên phố huyện bán đầy, thường dành cho hạng người bình dân, chứ thuốc bao nhà nước chỉ dành phân phối cho cán bộ chứ đâu được đến hạng thứ dân. Thêm nữa, trên mỗi bàn còn xếp dăm cái điếu bát, vài cây điếu cày ghếch nòng lên trời. Bàn ghế đã đầy chật người. Người già nhai trầu bỏm bẻm, đám thanh niên, thiếu niên choai choai đứa phì phèo điếu thuốc cuộn, đứa rít điếu cày ròn tan. Lũ trẻ con thì cứ chạy nhặng lên, ồn ã chí chóe giành nhau cái bánh, cái kẹo, điếu thuốc. Mấy cụ bô lão, áng chừng bề trên trong họ thì gật gù chuyền tay nhau chiếc điếu bát màu da lươn. Mùi khói thuốc, mùi mồ hôi dầu, mùi nắng gió quyện vào nhau thành một thứ mùi không sao gọi được tên, tiếng chuyện trò râm ran. Vài thanh nữ đi hết bàn này sang bàn kia, miệng mời chào, tay rót nước chè xanh đặc sánh trong mấy chiếc ấm tích sứt vòi ra chén. Con Xoan được mấy bà cô già nhà chồng ra đón rồi đưa biến vào chiếc buồng nhỏ bên chái nhà. Ở đó nó được sửa sang quần áo đầu tóc chờ đám rước dâu đi sau về đủ thì hôn lễ mới được cử hành. Phải gần tiếng đồng hồ sau đó, lễ cưới mới bắt đầu. Tiếng tay chủ hôn oang oang mời khách uống nước sơi trầu, xổ ra dăm ba câu thơ phú tự biên và đôi câu pha trò nhạt thếch đủ để khuấy lên cái không khí cưới xin đời sống mới chốn xóm quê. Con Xoan được cô bạn cùng làng dìu đến chiếc ghế băng xếp sau chiếc bàn làm việc kiểu cơ quan bày vuông cạnh với dãy bàn bên phải. Đằng sau bàn cô dâu chú rể là chiếc phông xanh dán đôi chim hòa bình, đôi chữ lồng cắt trên giấy đỏ nhìn kỹ mới đoán phỏng được tên đôi uyên ương. Thêm vài cành tre lớt phớt lá cắt giấy xanh, giấy trắng rải đây đó dọc hàng chữ “Lễ thành hôn”. Nhưng hàng chữ đọc được rõ nhất thượng trên tấm phông lại là câu khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ” trông cũng nghiêm ngắn. Hết đại diện nhà trai, đại diện nhà gái phát biểu, vài ba cô cậu chi đoàn thanh niên, dân quân tự vệ người ngâm thơ, người hát mấy bài hát rất phổ biến nhờ phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”. Đám thanh niên vỗ bàn, vỗ tay rầm rầm. Con cái Xoan mặt đỏ lựng, bẽn lẽn, miệng ngậm tăm, mặt cúi tay vân vê gấu áo. Thi thoảng nó ngẩng nhìn trộm đám đông ồn ã, xa lạ trước mắt như nhìn qua màn khói. Người thanh niên ngồi cùng ghế băng phía bên phải, người mà từ bây giờ là chồng nó, nó chỉ dám liếc ngang vội vàng thấy được cái cằm bạnh, tóc chải lật sang bên nhìn rõ là được dấp nước cho có nếp. Anh chàng diện bộ quần áo bộ đội vải Gabadin màu cứt ngựa trông đen nhẻm, gày gò, mặt mũi hốc hác ngồi cứng trên ghế, tay phải chống trên bàn, bàn tay lúc nào cũng thấy ấp lên má, rịn mồ hôi. Rồi đám cưới cũng nhanh chóng đến hồi kết thúc, khi mà từ thuốc nước, kẹo bánh vốn chẳng nhiều nhặn gì được đám khách khứa mau tay dọn sạch, để lại trên mặt bàn trơ khấc mấy chiếc đĩa sứt sẹo. Xong các thủ tục, cô dâu chú rể đứng lên chào mọi người. Ra tiễn khách đầu sân chỉ có con cái Xoan và mấy ông bà trong họ, anh chồng nó đã rút êm từ lúc nào rồi. Con Xoan bịn rịn chia tay vài người thân ít ỏi đi theo, trong đó đa phần là đám bạn gái cắt cỏ chăn trâu thuở bé. Ngoài sân, mấy trai làng nhanh chóng thu dọn, người gỡ tấm dù, kẻ ghé vai khênh bàn ghế trả cho ngôi trường học cuối làng, người khua mấy chiếc chổi rễ dọn giấy, đầu mẩu thuốc điếu, bã thuốc lào dưới sân. Công việc cũng chẳng nhiều nhặn gì, loáng cái là xong, người làm giúp cuối cùng của chi đoàn thanh niên xã ra về.
……
(Còn tiếp)