NHA TRANG MÙA THU

NHA TRANG MÙA THU
MẮT BIỂN MÙA THU

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

SẸO NHỤC (TRUYỆN VỪA) - BÌNH DƯƠNG

(Kỳ 16)
(Tiếp theo kỳ trước)
       .......
       Đêm như lặng đi giữa tán rừng ẩm thấp sương đêm. Phía trước là con đường chiến trận. Những người lính nín lặng chờ đợi giờ phút tiến vào vùng đất ồn ào tiếng súng tiếng bom. Họ tận dụng những khoảnh khắc im lặng rừng già để ôm ấp kỷ niệm, mơ hồ tách ra từ màn đêm những khuôn mặt người thân chập chờn đâu đó nơi phía sau trận chiến. Họ chưa hình dung được những ngày sắp tới ra sao, song cũng từng trải quá nhiều những vất vả đã qua trên đường ra mặt trận. Phút yên ắng trước mũi tên hòn đạn tưởng như  mãi dài ra. Phía xa, tiếng ầm ì đâu đó của đường xe ra tiền tuyến vọng về. Họ đã ở rất gần sự cuồng nộ của hận thù bom đạn...

*
*      *

       Dẹo dọ lần theo những bậc thang xuống tầng dưới, thằng Tĩnh thấy mẹ nó ủ rũ ngồi góc bàn ăn. Chưa cần thằng con mở mồm, mụ Đán đã lui cui hấp nóng nồi cơm, bát canh chua cho nó. Thằng Tĩnh vục mặt xuống bát cơm, ăn lấy ăn để. Ngót nửa tháng trời vạ vật, đây là bữa cơm ngon nhất đời của nó. Song cái ngon không át nổi cái đói. vài ba ngày vất vưởng có được bữa nào ra hồn đâu. Cơm trong miệng chưa kịp lùa xuống họng, nó đã gạt vội tay đũa nhồi miếng khác. Mụ Đán nhìn thằng con ăn như lợn húc máng, ruột thắt lại. Khổ cái thân nó. Không biết những ngày vừa qua nó ăn uống thế nào mà nom cái lối ăn đến là thảm. Miệng khuyên con: "Ăn từ từ thôi con, kẻo nghẹn!", tay chỉ chực đón chiếc bát sắp vơi cạn lòng để sới bát khác cho nó. Không khí căn phòng ăn như bị đảo lên lộn xuống giữa những tiếng hít hà, chóp chép của thằng Tĩnh. Chỉ mãi đến khi bát cơm thứ tư vơi đến già nửa, nó mới ăn chậm lại. Trông đôi con mắt của thằng con dại đi vì nỗi sợ hãi và quá bữa, mụ Đán cũng thấy ruột xót quắn lại, dù không ăn miếng cơm nào bữa chiều, vì cố chờ bố con nhà nó. Song mụ lại không thấy muốn ăn uống gì sất cả. Không khí trong cái nhà này từ lúc nó về đã chẳng ra sao rồi, còn thiết ăn uống gì nữa.  Bất chợt, buông bát cơm chỉ còn dính chút ít dưới đáy, thằng Tĩnh gục xuống bàn mếu máo: "Con sợ lắm u ơi, phen này khéo thày con đánh con chết mất". Nghe thế, mặt mụ Đán chợt xám đi, mắt trợn ngước nhìn lên tầng trên lo lắng. Ừ nhỉ! khéo mà bố nó phen này thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với thằng bé mất thôi. Tuy không biết chuyện của con là chuyện gì mà đổ giời đổ đất thế, từ đáy sâu trong lòng mụ như vẳng lên ý nghĩ: "Ra chúng nó biết cả, những lần lão già chết tiệt hành xác mình."
       Nhìn mẹ ngồi ủ rũ, thằng Tĩnh chợt thấy lại trước mắt mình quãng thời gian đã qua như cuốn phim chạy ngược. Nó những muốn trải lòng với mẹ mà cổ cứ nghẹn lại như đá chèn.
       Vào quân ngũ được gần hai năm, thằng Tĩnh đã ngấm đủ sự vất vả của người lính biên phòng. Nơi đóng quân của đơn vị nó là một đồn biên phòng cách cầu treo Hà Tĩnh hai ngày đường. Không biết còn nơi nào thâm sơn cùng cốc hơn không, chứ vị trí đồn giáp biên này vừa cheo leo lại vừa khắc nghiệt. Mùa đông rét như cắt da cắt thịt, mùa hè nóng như rang như đốt đến khô héo thân người. Thời tiết bốn mùa giễu qua đỉnh núi này đủ mọi thời khắc trong ngày. Đêm buốt lạnh trong tiếng gió rít hú, sớm ra sương trắng phủ đặc kín rừng, giơ bàn tay ra như cả vạn mũi kim găm xuống. Đến gần trưa, cái nắng chợt bùng chói đốt nóng muốn cháy thịt vỡ da, mùa gió Lào còn rát bỏng hơn cánh thợ rèn đứng bễ. Chiều xuống, mặt trời còn đỏ lựng hoàng hôn mà hơi núi lạnh lẽo đã bốc lên. Đám lính biên phòng cấm có anh chàng nào dám tắm suối vào giờ đó. Muốn tắm thì cứ giữa trưa mà tắm. Chập tối, ánh đèn vàng đục từ trong nhà hắt ra sân đồn không đủ đẩy đuổi bóng tối vây quanh. Hơn mười giờ đêm trực ban gõ kẻng báo tắt máy nổ, có công việc họp hành đột xuất gì thì cứ việc đốt mấy chiếc đèn bão lên. Bữa nào giao lưu quân dân, sân đồn sáng hẳn lên khi đống củi chất ngất giữa vòng người bắt lửa. Song những dịp như vậy chỉ vài ba tháng mới có một lần. Trai gái dưới bản lên vui với lính biên phòng một phần vì chiếc ti vi LG 50 "inh" lúc nào cũng có thể bắt đủ hai bốn tiếng trên hai bốn. Theo chuyến lên thăm đơn vị của Tư lệnh bộ đội biên phòng hồi Tết, chiếc ti vi đã được "cõng" lên tận nơi này với đủ máy nổ, chảo thu vệ tinh và loa đài. Sinh hoạt văn hóa của đơn vị nhờ vậy mà bớt cách bức, buồn tẻ. Hết giờ chạy máy nổ, chiếc ti vi lại chạy bằng bình điện ăc qui kèm theo. Vì thế, cánh lính biên phòng có cớ ngồi lâu được với đám con gái dưới bản. Ngoài số ít người Kinh từ dưới xuôi lên làm ăn, các bản người Mông, người Dao cư trú quanh đồn khá nhiều. Nói là sống gần đồn, chứ bản người Mông gần nhất cũng cách đồn cả nửa ngày đường, bản người Dao thì ở xa hơn. Người Mông sống trên các đỉnh núi cao và hiểm trở. Còn người Dao, sống tấp hơn nơi lưng chừng núi, gần những thung lũng đá rơi và ngoằn ngèo ruộng bậc thang lớp lớp, sóng sánh. Những con suối nước trong vắt róc rách chảy quanh năm. Đang hiền lành, nghịch ngợm như đứa trẻ vậy mà lũ về là con suối như muốn lồng lên, bất kham. Rất nhanh chóng, dòng nước trở nên hung hãn gầm rú, đục ngầu cuốn phăng mọi thứ trên đường đi. Thằng Tĩnh và đồng đội hết lượt này tới lượt khác đã từng có bữa đi tuần biên kẹt lũ mãi mới về được đồn. Dù đã chuẩn bị đủ lương khô mì gói, nếu không có bà con dân bản, chắc cả đám cũng khốn đốn vì đói vì mệt giữa rừng.
       Thi thoảng, bữa không đến phiên tuần biên thằng Tĩnh lại hào hởi theo chân đồng đội đi chợ vùng cao. Chợ họp tháng một buổi. Gọi là buổi nhưng cũng diễn ra từ sáng rõ mặt người đến giữa chiều. Để tới chợ, bọn thằng Tĩnh phải vượt qua một con đường vắt qua hai sườn núi khá hiểm trở. Khu chợ nằm cách đường biên khoảng 6 - 7 cây số, dưới chân một ngọn núi có bãi cỏ cháy xém gió Lào và lúp súp đám cây gai, cỏ dại khô trốc. Tiếng lao xao, í ới buổi chợ phiên vui ắp dù không thật đông người. Giờ này, mặt trời mới lên được một hai tiếng và sương thì vẫn chưa tan hết. Cái lạnh buốt cuối đông nơi vùng biên tưởng đã quen qua mấy mùa quân ngũ vẫn làm thằng Tĩnh co người lại. Trong mấy lớp áo quần, trông nó và đồng đội như mấy cục vải màu xám. Toàn thân bó trong bộ quân trang mùa đông,  đầu đội mũ bông có tai. Trong tấm áo bông, quần túm ống, chân đi đôi giày đi rừng cao cổ, trông họ nổi bật lên giữa bà con các dân tộc xuống chợ. Đàn ông áo cánh xanh hoặc đen, quần ống rộng, mũ đen. Đàn bà váy xếp nếp, áo thêu sặc sỡ thổ cẩm khăn màu trùm đầu rực  rỡ. Tiếng khèn trầm đục ê a, tiếng kèn lá, sáo Mông réo rắt như tiếng gió, tiếng suối lẩn quất đâu đây giữa âm thanh nói cười rộn rã. Chợ người Mông, Dao vui lắm, màu sắc vải vóc, chỉ thêu rờn mắt. Mùi mồ hôi người, mồ hôi ngựa, mùi cứt đái trâu bò lợn gà cứ vón lại giữa đám người và hàng hóa.
       Từng được tiếp xúc, giao lưu với bà con dưới bản nhiều mà thằng Tĩnh đến bây giờ vẫn cứ ngỡ ngàng trước váy áo con gái Mông. Từ nước lá chàm, phụ nữ Mông nhuộm vải sợi gai, sợi lanh thành các màu xanh lam, xanh lơ, xanh dương và tím than. Người Mông đen váy áo có màu xanh đen. Người Mông hoa dùng sáp ong vẽ hoa văn lên vải, nhuộm xong để lại đường nét màu trắng trên sắc xanh. Có lần, nhìn phụ nữ Mông hoa vẽ hoa văn lên vải, thằng Tĩnh cứ ngẩn ngơ ngắm mãi cái cách dùng bút chấm sáp ong nóng họ dùng để vẽ lên vải trắng các loại họa tiết hình vuông, dích dắc hoặc các đường nét kỷ hà lặp đi lặp lại rồi đem vải đi nhuộm. Nhuộm xong là cán phẳng mặt vải cho phẳng mịn, sợi ngang sợi dọc dàn đều. Với một cây gỗ tròn, người ta tìm một phiến đá phẳng mặt ven suối, lăn cây gỗ qua lại như thợ xẻ dưới xuôi xẻ gỗ. Mặt vải nhờ đó mà bóng láng, lên nước bắt ánh sáng như mặt gương. Để trang phục thêm bắt mắt, người đàn bà Mông còn đính thêm đồ bạc, kim tuyến, hạt cườm…lên áo quần tạo nên những mảng màu sắc sặc sỡ, uyển chuyển. Các hoa văn đủ dạng hình, vuông có, hình chữ nhật hình trám có bao bọc các ngôi sao năm cánh, sáu cánh, tám cánh. Rồi hoa bí, hoa tỏi, hoa cà, hoa mận, hoa đào, hoa sen, mạng nhện, cánh bướm, vảy cá, lá ngải cứu, cành tùng, búp tre, lưỡi câu, núi sông, đuôi rồng, con ốc, con rắn, sừng dê...màu đỏ tươi sáng, khiến các cô gái Mông đi giữa đám đông nổi trội hẳn lên. Phụ nữ Mông Trắng  áo váy trắng, cổ áo, nẹp áo, ống tay cổ tay, ngang váy và gấu váy đính các hoa văn ẩn lẫn sọc màu lam hoặc kim sa. Phụ nữ người Mông Đen mặc áo đen, cánh tay thêu họa tiết nổi trên nền đen. Phụ nữ Mông Hoa mặc áo xanh lam, xanh dương hoặc lơ. Quanh vai, ngực, ống tay và thân váy thêm các họa tiết trắng với các hình thêu đỏ, hồng, tím vàng…Phụ nữ Mông Đỏ mặc trang phục màu đỏ rực kết từ các miếng thêu đỏ, hồng và vàng rực rỡ xếp liền nhau. Xung quanh vùng ngực, bụng, ống tay đính thêm các tua hạt cườm, gấu váy ghim diềm đăng ten trắng. Đa số phụ nữ người Mông ở nhà để đầu trần tóc dài hoặc búi quấn lên đầu khiến dáng người họ cao thêm. Khi tới chợ họ quàng hoặc đội khăn lên đầu. Người Mông Trắng quấn khăn trên đầu cao như cái mũ, phía dưới vành đính hạt cườm sặc sỡ. Người Mông Đen quấn khăn vuông rộng to bản màu tím than. Phụ nữ Mông Đỏ lại vấn khăn hẹp trên đầu như cái đĩa. Người Mông Hoa choàng khăn, buộc túm phía sau gáy.  Dõi theo mỗi bước chân đong đưa nếp váy của họ, ánh mắt của các chàng trai người Mông cứ hút theo say đắm. Thanh niên người Mông vận những chiếc áo đen ngắn vạt, ống tay rộng, cổ áo thêu. Ve áo song song đính năm hàng khuy vải vắt ngang thân, tay cầm khèn, hoặc khoác chéo vai. Đàn ông, trai tráng người Mông Đen tay áo một màu tím than. Người Mông Hoa ống tay áo chia thành nhiều lớp như đen nối xanh, đen nối vàng, đỏ liền kề hoặc cách quãng. Người Mông Đỏ áo có thêm viền cổ và thêu ở nẹp áo. Họ đội những chiếc mũ quả dưa tám miếng màu đen hoặc thêu, quanh mũ đính các vòng họa tiết, đỉnh gắn cắc bạc. Có tộc người Mông quanh năm đội mũ lưỡi trai ngắn sát đầu hoặc mũ bốn vành thả xuống khi trời lạnh và gập gọn lên trên đầu vào mùa nóng...
....
(Mời xem tiếp kỳ sau)

Không có nhận xét nào: