Đình Ngọc Uyên
thuộc Phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương. Ngôi đình xưa đẹp đến mức bia
"Ngọc đình bi ký" được lưu giữ trong Đình làng Ngọc Uyên mô tả với
rất nhiều mỹ tự:
…."Ngôi đình ở phía đông thành Phượng,
đó chính là Đình Ngọc Uyên. Bao quanh đình hai bên tả hữu là sông Thái Bình. Xa
xa cảnh đẹp thu vào tầm mắt là án Ngọc Lặc cao chót vót. Phía trước giao lưu
chảy xiết với sông Lục Đầu. Phía sau cây cối tươi tốt xum xuê. Nổi gần đẹp mắt
đó là điền Triều (ruộng Triều). Trên dưới phì nhiêu tươi tốt. Nghìn cây cổ thụ
râm mát là nơi chim chóc tụ hội véo von. Đường rộng thênh thang, ngựa xe qua
lại tấp nập. Ngôi đình quả là một danh lam thắng cảnh vậy"…
Làng Ngọc Uyên (玉淵)(tên Nôm là làng Đũi) xưa
còn một ngôi văn chỉ cạnh đình Ngọc Uyên bây giờ. "Từ chỉ bi ký" -
Bia ghi công đức của Hội tư văn bản xã có bài minh chép hai câu như sau:([1])
清 林 勝 地 第 一 玉 淵
文 風 初 振 逃 脈 永 傳
人 才
世 出 科 甲 步 聯
碑 成 之 後 福 享 憶 年
Phiên
âm như sau:
Minh viết:
Thanh Lâm thắng địa đệ nhất Ngọc Uyên.
Văn phong sơ chấn đạo mạch vĩnh truyền
Nhân tài thế xuất khoa giáp bộ niên
Bi thành chi hậu phúc hưởng ức niên
Dịch nghĩa rằng:
Đất Ngọc Uyên là nơi thắng cảnh đẹp
nhất huyện Thanh Lâm
Văn hóa phong tục thuần hậu nổi tiếng
mạch đất mãi lưu truyền
Nhân tài xuất
thế qua các khoa giáp đều kế tiếp nhau đỗ đạt
Ghi lại trên
bia để muôn đời, phúc hưởng ngàn năm.
….
Thân phụ sinh ra hai vị là Ông Lê Viết
Đức và Bà Bùi Thị Nguyên, nguyên quán tại thôn Gôi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định. Vốn xuất thân nghèo khó, lại hiếm muộn đường tử tôn nên ông bà rời cố
hương tìm nơi đất lành sinh sống, dạt tới làng Ngọc Uyên. Gặp nơi đất tốt, bằng
phẳng lại phì nhiêu cây cối xanh tươi, sông nước thuận hòa bèn xin ngụ lại. Bỏ
công khai phá đất hoang, trồng lúa, đánh bắt cá tôm sinh sống, cùng bà con bản
địa lập nên điền trại. Tại đây, thuận ý trời bà sinh đôi hai trai, tướng mạo
khôi ngô, tuấn tú. Hai cụ đặt tên một
người là Lê Viết Hưng, một người là Lê Viết Quang.
Nhị vị càng lớn càng vạm vỡ, khỏe
mạnh. thân hình cao lớn, trí tuệ khác người, văn chương toàn thiện, võ nghệ
tinh thông.
Năm 938, Vua Nam Hán đem quân xâm lược
nước ta. Không chịu nổi ách đô hộ, khắp nơi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Ngô
Quyền được nhân dân và tướng sĩ ủng hộ đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng, mở ra kỷ nguyên thống nhất cho đất nước. Năm 944, Ngô Quyền mất, triều
chính rối loạn, dẫn đến họa 12 sứ quân làm dân tình hỗn loạn, cuộc sống chìm
đắm trong khổ đau. Từ đất Hoa Lư (Ninh Bình) Đinh Bộ Lĩnh phất cờ nghĩa dấy
binh dẹp loạn được nhân dân hưởng ứng. Hòa cùng bách thứ, dân làng Ngọc Uyên
cũng đóng góp nhân tài vật lực với mong muốn sớm phục hưng đất nước. Hai anh em
Lê Viết Hưng và Lê Viết Quang tình nguyện theo Đinh Bộ Lĩnh, hưng binh trấn giữ
vùng châu thổ, đánh thắng nhiều trận ở vùng Chí Linh, Thanh Lâm. Do có công với
nước, hai ông được Vua Đinh phong tước, nhân dân lập đền thờ tôn làm Thành
hoàng.
Đức Thánh Cả Lê Viết Hưng được phong
là Đương cảnh thành hoàng quan hà Đại vương "Trưởng tả đạo binh nhung kiêm
tham tán mưu sự"
Đức Thánh Hai Lê Viết Quang được phong
là Đương cảnh thành hoàng Đinh triều phong tước "Thiếu tử Thái Bảo tiền
quân".
Ngày nay, trong đình còn lưu lại đôi
câu đối nguyên văn như sau:([2])
丁 朝 兩 相 扶 國 志 男 兒
文 武 全 才 救 民 莊 越 史
Phiên âm:
Đinh triều lưỡng tướng phù quốc chí
nam nhi
Văn võ toàn tài cứu dân trang Việt sử
Nghĩa là:
Triều Đinh hai tướng phù Vua giúp nước
tỏ rõ chí nam nhi.
Văn võ tài giỏi vẹn toàn, cứu dân
(công) trạng được ghi trong sách sử nước Việt.
Trong gian hậu cung, còn đôi câu đối
ca ngợi công đức nhị vị thành hoàng nguyên văn như sau:([3])
扶 國 安 民 翊 英 靈 于 玉 地
除 奸 討 賊 奮 威 武 偊
花 閭
Phiên
âm:
Phù
quốc an dân dực anh linh vu ngọc địa
Trừ
gian thảo tặc phấn uy vũ ư Hoa Lư
Nghĩa
là:
Giúp
nước, bảo vệ dân yên, sự anh linh hiển ứng nơi đất Ngọc Châu
Giết
giặc trừ gian, uy vũ oai phong lẫm liệt tại Hoa Lư
Đình Ngọc Uyên được xây nên từ bao giờ
không rõ, trước vốn được dựng ở giữa làng về phía Nam, thuộc xóm Giếng Quan.
Đây vốn là khu đất trũng lầy lội, không được thoáng đãng, bất tiện cho việc đi
lại thăm viếng, thờ cúng. Sau được di về địa điểm ngày nay (đầu làng) cao ráo,
thoáng mát. Theo các cụ cao niên trong làng, khu đất này đắc địa bởi thế đầu
rồng, ngôi đình nằm chính trán rồng, chếch phía trước cửa đình về phía đông nam
khoảng 200 m có hai ao tròn tựa mắt rồng. Lại có ý cho rằng, đình làng có thế
"rồng chầu hổ phục", có thể trường tồn mãi mãi.
Tuy khó xác định năm khởi dựng đình, song căn cứ tài liệu hồ sơ di tích do Bảo tàng Hải Hưng lập
thì thời gian di chuyển đến địa điểm hiện nay đồng thời cũng là một đợt trùng
tu lớn được thực hiện vào năm Tự Đức (嗣 德) thứ hai, tháng tư năm Kỷ Dậu (1849)- như dòng chữ khắc trên
Thượng lương. Thời gian trùng tu mở rộng tòa tiền đường từ 3 gian thành 5 gian
như ngày nay vào năm Duy Tân (維 新) thứ 6 Nhâm Tý (1912)([4])
Đình Ngọc Uyên hiện còn giữ được khá
nhiều cổ vật quý thuộc đủ các chất liệu.
Về địa lý hành chính, làng Ngọc Uyên,
xã Ngọc Châu từng nhiều lần thay đổi. Thời phong kiến tên đầy đủ là Ngọc Uyên
xã, Trác Châu tổng, Thanh Lâm huyện, Nam Sách phủ, thuộc Hải Dương trấn. Sau
cách mạng tháng 8 - 1945 làng Ngọc Uyên thuộc xã Ngọc Châu, huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương. Sau nhiều lần thay đổi địa giới, khi thuộc thị xã Hải Dương
(1950), khi tách trả huyện Nam Sách (1954); đến năm 1969 Bộ Nội vụ ra quyết
định cắt xã Ngọc Châu thuộc huyện Nam Sách đưa về thị xã Hải Dương và ổn định mốc
giới hành chính cho đến bây giờ. Nay thì Ngọc Uyên thuộc phường Ngọc Châu,
Thành phố Hải Dương.
Tài liệu "Thần tích - thần
sắc" làng Ngọc Uyên do Lý trưởng sở tại khai vào 31 tháng 3 năm 1938 mô tả
việc tế lễ như sau:
Tế lễ các dịp: ngày sinh thần thành
hoàng vào 16 tháng giêng, ngày thánh hóa
là 2 tháng 11, ngày khánh hạ 6 tháng 10 làm lễ ca khúc khải hoàn (hay
còn gọi là Lễ hội thắng trận khao quân;).
Việc tế lễ, hội hè được các cụ cao
niên kể lại tuần tự như sau:
Vào dịp 15 đến 17 tháng Giêng, kỷ niệm
sinh nhật Thành hoàng, là lễ kỳ phúc đồng thời là dịp làng vào đám.
Ngày 14 làng mở cửa đình, bao sái đồ
thờ, dọn dẹp, lau chùi, chuẩn bị đồ tế tự và các công việc khác. Chiều ngày 14
tế yết có 2 thủ lợn, 2 phương xôi nén, rượu, trầu, hoa quả.
Trưa ngày 15 (chính ngọ) tế nhập tịch.
Làng có 5 giáp (Đông Hào, Tây Hào; Tiền Đình, Khang Phụ, Tân Phú), mỗi giáp
mang lễ vật dâng thánh là 1 con lợn sống, cùng xôi nén, rượu, hoa quả. Lợn tế
mỗi năm, người dược phe giáp cắt cử làm "tế đám" phải tự nuôi 2
"ông lợn". Ông "tế đám" sẽ được làng giao cho ruộng công
cày cấy lấy hoa lợi lo chuẩn bị lễ vật dâng Thánh. Từ lúc nhập chuồng đến khi
thành vật tế đều được danh xưng hộ là "Ông lợn", được nuôi chuồng
riêng, chế độ ăn uống đặc biệt và được chăm sóc, tắm rửa sạch sẽ thường xuyên. Nếu
lợn ốm, bỏ ăn thì không được dùng thuốc chữa mà biện cơi trầu kêu Thánh là
khỏi. Lợn phải nặng từ 70 cân trở lên. Ông to làm tế đám, ông nhỏ làm thịt để
mời phe giáp ăn cùng ngày lễ hội 16 tháng giêng. Khi đưa vào tế, lợn sống mổ
phanh được để nguyên con, nằm úp trên bàn, toàn thân được bôi tiết cho đỏ hồng
lên, lá mỡ chài (được bóc từ dạ dày lợn) được phủ lên che kín đầu lợn, và cắm
hương lên trên. Khuôn xôi được đóng nặng bằng trọng lượng của "ông
lợn" tế. Sau khi tế xong, mọi người thụ lộc tại đình.
Ngày 16 là ngày đại lễ, ngày chính tế.
Từ sáng đoàn rước của làng với cờ, biển, tán lọng, nghi trượng rầm rộ rước kiệu
thánh đi vòng quanh làng rồi trở về đình. Đến giờ Ngọ, làng tổ chức tế. Trong
khi tế, nếu ai phạm lỗi hay người tế làm sai động tác thì bị cắm thẻ tre trên
đầu, bị làng phạt tiền và phải có cơi trầu kêu thánh và xin làng, tiền đó chi
dùng vào việc hương đăng ở đình. Tế xong đồ lễ chia về các giáp.
Ngày 17 tháng giêng có hai khóa tế:
- Tế tạ vào buổi trưa hay còn gọi là
tế tán tịch.
- Tế tiễn vào buổi chiều, tế tiễn quan
"đương niên hành khiển". Việc tế được cử hành ngoài sân đình tùy từng
năm, bàn tế được bày theo các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Tế từ giữa sân đình
vào đến cửa nội cung.
Đội hình quan tế có thêm 2 ông Thông
xướng Đông, Tây dẫn quan viên tế và xướng thay cho 2 ông Đông, Tây điển tiếp
lời tế.
Sau đó rước bát hương Thành hoàng
trở lại miếu đền Thượng tế an vị và để lại bát hương thờ Thánh tại đó. Buổi
chiều, tổ chức tế tạ trong đình (gọi là tế nội tán) dùng 6 con lợn sống (5 con
của 5 giáp và 1 con để làng biếu các quan viên dự tế). Sau khi tế xong, làng
biếu phần tế cho các quan viên dự tế, ông chủ tế được biếu thủ lợn, ông đọc văn
được cái khoanh bí, hai ông củ soát được 2 cái chân trước; hai ông Đông điển,
Tây điển (hay Tây xướng, Đông xướng) và bồi tế, cùng các quan viên hàng dòng,
mỗi người được một miếng thịt lợn. Sau khi tế tạ, làng còn tổ chức cúng lục đạo
chúng sinh do thày cúng đảm nhiệm, đồ lễ có quần áo, tiền vàng, các thứ bánh
đa, khoai lang, ngô, cháo lá đa. Cúng xong, mọi người cùng ùa vào cướp cháo thí
để lấy lộc. Sau đó làng đóng cửa đình, rã đám.
Ngày 6-10 (âm lịch) kỷ niệm ngày các
vị Thành hoàng thắng trận trở về- Lễ hội thắng trận khao quân. Lễ trong dịp này
kéo dài 3 ngày: Ngày mùng 4, mở cửa đình, dọn dẹp, chuẩn bị. Ngày mùng 5 tháng
10, buổi chiều tế yết Khải thánh phụ, Khải thánh Mẫu ở Đền Trung. Ngày mùng 6
tế chính có thủ lợn, xôi nén và các thứ hoa quả, trầu rượu. Xưa, lễ này thường
được tiến hành trên đất Thanh Lâm xưa.
Ngày 12-11 (âm lịch) là ngày Thánh
hoá, tổ chức tế kỵ Thánh, làng chỉ tổ chức lễ 1 ngày với thủ lợn, mâm xôi, hoa
quả, trầu rượu. Tế xong, quan viên thụ lộc tại đình và chia phần về các giáp.
Cuối ngày đóng cửa đình.
Ngoài ra trong năm còn các lễ theo
thời tiết như: Thượng điền ngày 15-7; hạ điền ngày 1-5.
Hàng năm vào đêm 30 Tết còn tiến hành
3 khóa tế:
- Tế Tiễn từ 21h 30 đến 23h 00
- Tế Nghinh từ 23h đến 24h 30
- Tế Nguyên Đán giờ Ngọ ngày 1 Tết.
Lễ hội làng Ngọc Uyên xưa nổi bật với
lễ rước thánh tổ chức vào ngày 16 tháng Giêng: Đi đầu là đội múa lân - đội cờ thần, bát bửu, chấp kích - phường bát
âm - kiệu bằng khiêng “ông lợn” cùng các lễ vật dâng Thánh – kiệu long đình thứ
nhất có lọng che - kiệu bát cống rước ngai và bài vị đức Thánh Cả Lê Viết Hưng
có tán vàng che trên đầu và 2 quạt vải che hai bên – quan viên tế - rồi đến
kiệu long đình thứ hai có lọng che - kiệu bát cống thứ hai rước ngai và bài vị
đức Thánh Hai Lê Viết Quang cũng có tán và 2 quạt vải che - quan viên tế - các chức sắc, lão làng, hội
tư văn và nhân dân theo sau. Đoàn rước khởi hành từ đình, theo đường cái nghinh
thần vể miếu đền Thượng rồi lại rước về đình.
- Tế ngày 16 cũng dùng 5 con lợn, mỗi
lợn đi cùng với 3 phương xôi nén, 3 chai rượu, cùng hoa quả, trầu cau.
- Tế ngày 17 dùng 6 con lợn, xôi nén,
hoa quả, trầu rượu.
Dịp khánh tiết mùng 6-10: lễ vật gồm
thủ lợn, xôi nén, trầu rượu, hoa quả
Tế dịp kỵ Thánh 12-11: lễ vật gồm thủ
lợn, xôi, cùng trầu rượu, hoa quả.
Còn trong các tối từ 14 đến 17, có lễ
gà luộc đặt lên ban thờ trong khoảng từ 8 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm
sau lại hạ lễ xuống. Gà này do các giáp trưởng cử 1 người trong giáp mình nuôi.
Gà làm lễ được mổ moi, hai cánh được buộc xoè ra như cánh tiên, miệng ngậm hoa
mẫu đơn.
Chuyện lễ vật dâng thánh bằng "ông
lợn", "gà cánh tiên" có thể được coi là những sản vật lễ thánh
khá độc đáo của hội Đình Ngọc Uyên mà không phải nơi nào cũng có.
Phần hội xưa khá phong phú. Trò chơi
dân gian có các trò bơi lội, cầu thùm, bắt vịt, vật, cờ tướng, tổ tôm điếm, tam
cúc điếm. Khi trước, khu sinh thái Đồng Xanh bây giờ còn là khu đất rất rộng
dân làng thường tham gia trò chơi như đánh đu, vật, kéo co…Các phường hát từ Tứ
Kỳ được mời sang diễn các tích tuồng, chèo.
Lễ hội Đình Ngọc Uyên ngày nay chỉ tổ chức vào tháng giêng,
có tiết giảm đôi chút so với trước, song vẫn giữ được bản sắc xưa. Lễ hội tập
trung vào dịp 15 đến 17 tháng Giêng: ngày 15 tế nhập tịch, có 2 thủ lợn, xôi
nén, hoa quả, bánh kẹo, trầu rượu. Ngày 16 có thủ lợn, xôi nén, hoa quả, bánh
kẹo, oản.
Còn dịp 6-10 và 12-11 tuỳ từng năm có
thể có thủ lợn hoặc chỉ có thịt lợn miếng, gà
cùng các thứ hoa quả, bánh kẹo, trầu rượu. Lễ hội có sự tham gia của
nhân dân 6 khu dân cư thuộc phường Ngọc Châu: khu 7, 11, 12, 13, 14, 15 với gần
200 người phân công vào các việc cụ thể, cùng học sinh, giáo viên của 2 trường
phổ thông nằm trên địa bàn phường, các hội, đoàn thể trong phường.
Đoàn rước tuần tự gồm: Đội kỳ lân -
đội hồng kỳ - cờ nằm - kiệu ảnh Bác - kiệu bằng di tích lịch sử- đội hình giáo
viên các trường - đội bát bửu 1 - đội chiêng, trống - kiệu long đình 1 có lọng
che - kiệu bát cống 1 rước ngai và bài vị đức Thánh Cả có tán và 2 quạt vải che
- đội tế nam - đội bát bửu 2 - kiệu long đình 2 có lọng che - kiệu bát cống 2
rước ngai và bài vị đức Thánh Hai có tán và 2 quạt vải che - đội tế nữ - nhân
dân. Kiệu Đức Thánh cả và kiệu Đức Thánh Hai khi rước mỗi kiệu đều được che bởi
một quạt rủ cắm trực tiếp sau long ngai.
Đoàn rước từ cửa đình đi theo đường
Nguyễn Hữu Cầu ra ngã ba Phú Lương, theo đại lộ Trần Hưng Đạo về qua cửa UBND
phường Ngọc Châu, theo đường Trần Thánh Tông
về đình.
Đình có đội tế nam 17 người, đội tế nữ
(gần đây mới có) cũng 17 người. Sau khi đội nam tế xong thì đội nữ vào dâng
hương.
Phần
hội vẫn thu hút các kỳ thủ tham gia các bàn cờ tướng, chọi gà, kéo co, đập
niêu, ném bóng, múa lân, vật, đốt pháo bông. Các hoạt động thể thao quần chúng
như: bóng chuyền, cầu lông, đồng diễn thể dục dưỡng sinh của các cụ hội người
cao tuổi, bóng đá phong trào…Tối có giao lưu văn nghệ chèo, quan họ, ca nhạc.
Th.s. Nguyễn Huy
Thiêm
(Bài
viết đã dược xuất bản trong sách "Lễ hội dân gian tỉnh Hải Dương", Sở
VHTT&DL xuất bản, năm 2010.- Tr.67)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét