Vào thế kỷ
18, 19 làng Dưỡng Thái còn thuộc tổng Bất Nạo, huyện Kim Thành, trấn
Hải Dương. Sau cách mạng tháng 8/1945 thôn Dưỡng Thái thuộc xã Phúc Thành,
Hải Dương. Xã Phúc Thành nằm ở phía Bắc huyện Kim Thành, có hai thôn
là Dưỡng Thái và An Thái. Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 07/10/1995 của
Thủ tướng Chính phủ tách thôn An Thái và một phần xóm 3 thôn Dưỡng
Thái thành lập Thị trấn Phú Thái. Phần còn lại của thôn Dưỡng Thái là
xã Phúc Thành ngày nay. Xã Phúc Thành nằm bên đường Quốc lộ 5 tuyến Hà
Nội - Hải phòng, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng cho giao thương, kinh
tế và phát triển văn hóa, du lịch. Phía Bắc, giáp sông Kinh Môn nhìn
về phía đỉnh An Phụ nơi thờ An Sinh Vương Trần Liễu. Phía Nam giáp
với xã Kim Anh. Phía Đông giáp thị trấn Phú Thái và sông Kinh Môn. Phía Tây
giáp với xã Kim Xuyên. Xã Phúc Thành có cụm di tích lịch sử quốc gia
là Đình - Chùa Dưỡng Thái, là một trong số ít các di tích bao gồm
cả đình và chùa (toàn tỉnh chỉ có 11 di tích đình - chùa là DTLSQG)([1])cùng
được công nhận là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1568
QĐ/BT ngày 20-4-1995. Đình - Chùa Dưỡng Thái còn có vị trí mở đầu tuyến
các di tích quan trọng trong tiểu vùng Kim Thành - Kinh Môn với một
loạt di tích quan trọng, có ý nghĩa vùng văn hóa trọng điểm của
tỉnh Hải Dương như Đình Huề Trì, khu di tích An Phụ - Tượng đài Trần
Hưng Đạo, động Kính Chủ…Đó là những địa danh quá quen thuộc đối với
khách thập phương và xứng đáng
được coi là một trong những tài nguyên du lịch của tỉnh.
Đình hiện còn xây dựng vào năm 1884,
căn cứ trên dòng chữ ghi trên thượng lương: "Hoàng triều Kiến Phúc
nguyên niên tuế thứ giáp thân niên bát nguyệt sơ thập cát nhật lương
thời thụ trụ thượng lương". Kiến trúc chữ Đinh (丁)gồm đại bái 3 gian 2 dĩ và hậu cung 3 gian. Riêng
hậu cung, trước từng bị phá dỡ sau được nhân dân và chính quyền địa
phương tu bổ tôn tạo lại vào năm 1998. Kiến trúc mang đậm dấu ấn thời
Nguyễn với nhiều bức chạm khắc gỗ trên rường, xà, đầu dư, xà nách,
các bức cốn hầu như còn nguyên bản hết sức giá trị. "Hệ thống
cột, xà, hoành, rui, xà đùi, kẻ góc…đều là gỗ tứ thiết còn khá
tốt"([3]),
mặc cho thời gian đã in dấu khá đậm lên công trình.
Khi xưa, nằm cách đình khoảng 200
m về phía Đông là Chùa Cả, tên chữ là Cảnh Linh tự (景
靈 寺), dân gian gọi theo tên nôm là
Chùa Oi. Được khởi dựng vào năm nào thì không rõ, chỉ biết rằng vào
thời hậu Lê, niên hiệu Chính Hòa (正 和)thứ
11 (1690) đã có chùa. Chùa nằm trên một khoảnh đất công khá rộng rãi,
thoáng mát, lưng quay về dòng sông Vận ở phía đông mà phù sa con sông
bồi lên cánh đồng Dưỡng Thái màu mỡ. Theo các bậc cao niên trong làng
kể lại khoảng năm Thành Thái (成
泰)thứ
2 (1890), do có tranh chấp về đất đai giữa hai làng Dưỡng Thái và
Quỳnh Khê mà dân làng Dưỡng Thái đã chuyển chùa Cả về phía Tây
đình, cách đình 300 m và ổn định ở đó cho đến nay. Chùa hiện tọa
lạc trên một khu đất rộng tới 3 mẫu Bắc Bộ (khoảng 10800 m2). Mặt
tiền quay về chính Nam, sinh cảnh khá hữu tình, với khu vườn chùa
rộng rãi, các sư trụ trì và tổ trồng cây của các cụ phụ lão trong xã đã
trồng nhiều cây ăn quả lưu niên như vải, nhãn, dừa, mít… Nhà chùa thờ
Phật phái Trúc Lâm, có cấu trúc khá đẹp "các hạng mục như tam
quan, tiền đường, thượng điện đều là những công trình nghệ thuật
chắc chắn, cổ kính. Tiền đường có 6 gian và 3 gian thượng điện được
kiến tạo theo kiểu chồng rường đấu sen đơn giản, nhưng còn khá chắc chắn
do mới trùng tu cuối thế kỷ 19…"([4])
Cả hai di tích không chỉ quan
trọng đối với tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân dịa phương mà điều
quan trọng hơn cả là đều liên quan đến nhân vật được thờ, điều làm
cho cả đình và chùa trở thành di tích được xếp hạng quốc gia - bên
cạnh các tiêu chí khác về kiến trúc, nghệ thuật kèm theo.
Nhân vật được thờ làm thành
hoàng ở hai di tích là nhân thần Nguyễn Thụy Hường thời Lý cùng ba
tướng sĩ có công đánh giặc Tống thế kỷ XII.
Tài liệu thần tích, thần phả và
truyền ngôn cho biết rằng: Là tướng nhà Lý, Nguyễn Thụy Hường được
giao cho trọng trách trấn giữ miền đông bắc thành Thăng Long, chặn
đánh giặc ở miền Đông Triều (xưa vốn thuộc trấn Hải Dương, nay thuộc
về tỉnh Quảng Ninh). Ông có tài cầm quân, lại lắm mưu lược, thu phục
được lòng dân và được tướng sĩ một lòng phụng sự. Đạo quân do ông
thống lĩnh đánh đâu thắng đó. Trên đường truy đuổi quân Tống, qua vùng
Dưỡng Thái, ông cho quân nghỉ lại. Đêm đó, ngày 5 tháng 10 âm lịch, ông
được báo mộng đánh tan giặc Tống. Quả nhiên, điềm mộng báo linh ứng,
ông cùng quân sĩ đại thắng sau một trận chiến ác liệt, quân Tống vỡ
trận, chết trận nhiều vô kể, kẻ sống sót, thương tật giẫm đạp lên
nhau mà chạy thoát lấy thân. Song trong cái vui thắng trận, vị thống
tướng bị mũi tên bắn lén của kẻ bại trận. Các tướng lĩnh đưa ông
về làng Dưỡng Thái chữa trị vết thương, song ông không qua khỏi, mất
vào ngày 15 tháng 10 âm lịch ngay tại mảnh đất nay xây dựng Chùa Cả.
Việc ông mất chẳng những gây nên bao tíếc thương mà còn thiêng đến
nỗi, khi nhà vua cử 3 viên tướng về Dưỡng Thái xem xét tấu trình của
dân về việc phong sắc cho ông cũng quy tiên tại đây. Việc quá bất ngờ
và hiếm lạ nên nhà vua truyền cho dân sở tại lập đền thờ ông cùng
các tướng. Triều đình cũng phong sắc cho ông là Hằng tế "Đương
cảnh thành hoàng, tham tán lý, thông minh thần vũ, hiển ứng thần uy, Hùng
thủy Hằng tế linh phù đại vương, dực bảo trung hưng, gia tặng Đoan phúc
linh phù tôn thần". Nơi thờ phụng Ông cũng được ban bức hoành phi
với bốn chữ vàng 玉 燭 泰 平. ("Ngọc - Chúc - Thái -
Bình"). Cùng với Ông, ba vị tướng tạ thế tại làng được dân tôn
làm thành hoàng, có đôi câu đối ghi:
四 位 英 靈 千古 聖
一 方 主 宰 憶 年 神
"Tứ
vị anh linh thiên cổ thánh,
Nhất
phương chúa tể ức niên thần"
Cụm di tích Đình Chùa Dưỡng Thái
còn giữ được nhiều cổ vật. Tại đình ngoài ba tượng của ba vị
tướng, trên cùng có đặt ngai của Đức Thánh Cả. Tượng Đức thánh cả
được thờ tại Chùa Cả, nơi ông qua đời sau cuộc chiến. Tại chùa Cả,
bên nhiều bức tượng thờ chư Phật như các chùa theo phật phái Trúc
Lâm, trong điện thờ gian giữa, tượng Đức thánh Cả Nguyễn Thụy Hường
được đặt trang trọng trong khám thờ sơn son thếp vàng, được chạm khắc
rất đẹp. Chính việc thiết đặt tượng của các vị thành hoàng làng
như vậy đã tạo cho lễ hội Đình Dưỡng Thái nhiều sắc thái riêng trong
lễ thức và tế rước.
Song, sẽ rất thiếu sót nếu bỏ
qua các chi tiết có ghi trong hương ước xưa của làng. "Làng (Dưỡng
Thái) có một Đình Cả, 2 chùa Cả
và chùa Quýt, một miếu ở Cửa Nghè, một miếu ở Chùa Cả, thờ đức Thánh
Cả"([5])
Định lệ hàng năm, theo các tài
liệu hiện có và bản hương ước được kỳ mục làng Dưỡng Thái soạn năm
1936, bên cạnh các lễ tiết khác trong năm việc tế lễ thành hoàng
được ghi như sau:
"….10/ Đình cả có
những sự lệ:
……..
Ngày 8 tháng Giêng có lệ các lão
tự 55 giở lên ra đình yến lão và tế thần.
Ngày 8 tháng 3 vào đám (1 đến 3
ngày)
Ngày 1 tháng chạp làm lễ cách
cố (là lễ cắt đặt các tế đám và các tiết)
20/ Chùa Cả có sự lệ:
Ngày mồng 8 tháng giêng làm lễ
thượng nguyên ở miếu Cả.
Ngày 15 tháng 10 húy nhật thần."
Hương ước cũng định rõ
"Những lệ vào đám thì chỉ được đến 7 ngày là cùng".([6])
Từ lời kể của các vị cao niên
trong làng thì lễ hội xưa (trước 1945) diễn ra như sau:
Tại Đình, lễ hội được tiến hành
từ 7 đến 9 tháng 3 âm lịch. Chiều ngày 7 làng làm lễ cáo yết, có
đội tế thuê từ nơi khác về. Làng chia cho 4 giáp chuẩn bị lễ vật
dâng thánh. Lệ xưa các giáp đều chọn người tế đám hàng năm. Người
được giao đến lượt tế đám phải lo nuôi vỗ một con lợn cỡ 50 Kg (được
tôn làm Ông Lợn) với những quy định khá ngặt nghèo về việc nuôi vỗ,
kiêng kỵ. Sau khi được mổ, "ông lợn" được cạo lông thật sạch sao cho
da thật trơn, nhẵn. Mỡ lá lấy ra đem phủ khắp thân đặt lên bàn sơn son thếp
vàng trang trọng rước về đình để làm lễ dâng thánh. Người làm tế đám
ngoài việc lo lễ vật tế thần còn phải sắm sửa lễ nghi như lo một
bàn xôi để tế thần, lo hương đăng cả năm. Chi phí ngoài xôi thịt của
ông tế đám, gà rượu, bánh dày, bánh mật, hoa đăng… gọi theo các phe
giáp sửa lễ.
Cùng với tế cáo yết, làng làm lễ rước thần thành hoàng Nguyễn
Thụy Hường từ chùa đưa về đình. Lễ nghi này được thực hiện như sau:
Tại đình, sau lễ tế các chân
kiệu lên vai 3 cỗ kiệu đặt tượng 3 vị thần thành hoàng (những vị đã
mất tại làng khi thực hiện lệnh vua về xem xét ghi công trạng Nguyễn Thụy
Hường), riêng cỗ bát cống, trên đặt cỗ ngai của Đức thánh cả. Đoàn
rước cung kính đi tới chùa Cả, làm lễ nghinh thần đưa tượng Đức
thánh Cả lên kiệu bát cống rước về đình làm lễ yên vị.
Trưa ngày mồng 8, lễ mộc dục, bao
sái đồ thờ. Các lễ thức tế, lễ, dâng hương trong ngày mồng 8 được
coi là các lễ trọng, quan lại, kỳ mục, dân đinh trong làng kính cẩn
lễ bái theo thứ vị được giới hào mục quy định. Ngày 9 tháng 3, làng
làm lễ tế giã và lễ rước đức thánh cả lại được tiến hành theo trình
tự ngược lại: các đức thành hoàng đưa Ngài từ đình về chùa. Xong
xuôi, rước tượng ba vị thành hoàng về đình làm lễ yên vị.
Trong ba ngày ấy, lễ hội được tổ
chức trọng thể tại Đình Cả. Song hành với các lễ nghi, phần hội cũng
hết sức phong phú. Nam
thanh nữ tú hào hởi chơi đu, cầu thùm, vật cầu, vật sới, chọi gà,
bịt mắt bắt dê… Các đêm vào đám, làng mời chèo gánh, tuồng pho, các
giáp thi nhau hát đối, hát trống quân. Tiếng trống chèo, tiếng thì
thùng nhịp hát trống quân rộn rã một vùng, người dân hả hê vui hội
dù cuộc sống chưa được dư dật, quan nhiêu kỳ mục trong làng còn cưỡi
lên đầu lên cổ dân đen. Lễ hội làm cho người cùng đinh tạm quên kiếp
đói nghèo, hà hiếp đời thường, ngẩng mặt lên trời xanh ngưỡng vọng
thánh thần thỏa nỗi tâm linh. Lễ hội làng Dưỡng Thái cuốn hút khách
thập phương cả một giải đất dài tổng
Bất Nạo, Thanh Lâm xưa.
Lễ hội Chùa tiến hành vào 10
đến 11 tháng giêng.
Đình, Chùa của thôn An Thái đã
bị giặc Pháp san bằng lấy nguyên liệu xây bốt Phú Thái từ cuối năm
1946 đầu 1947. Toàn bộ các công trình hiện nay như Đình Dưỡng Thái,
Chùa Cả, Đền - Chùa Quýt được Đảng ủy, UBND và nhân dân trong xã trùng tu
lại tuần tự vào các năm 1998 (Đình), 2000 (Chùa Cả), 2001 (Đền - Chùa Quýt) . Hậu
cung Đình Cả cũng được trùng tu, xây lại. Trước thời điểm đó, các
cổ vật, tượng các thần thành hoàng đều gửi bên Chùa Cả. (Có giai
đoạn, đình làng còn dùng làm trường học, kho lương thực, trụ sở UBND
xã...)
Sau năm 1994, nhất là sau khi Đình
và Chùa Dưỡng Thái cùng được công nhận di tích lịch sử quốc gia,
chính quyền và nhân dân xã Phúc Thành khôi phục lại lễ hội Đình -
Chùa Dưỡng Thái. Ban quản lý di tích được thành lập. Hàng năm, khi
làng vào đám Ban tổ chức lễ hội được lập ra dưới sự chỉ đạo của
Đảng ủy và UBND xã. Lễ hội từ nay được coi là lễ hội Xuân, được tổ
chức từ ngày 10 đến 12 tháng Giêng (Hai ngày rưỡi). Trung tâm tổ chức
lễ hội nay chuyển về khuôn viên nhà chùa (do vị trí chùa Cả tương
đối trung tâm so với Đình Dưỡng Thái, Chùa Quýt (thờ đức thánh Trần)
.
Sáng ngày 10, tế cáo yết tại
đình. Việc tế lễ do các cụ trong đội tế nam quan thực hiện. Say đó rước tượng tam vị đại
vương từ đình làng sang chùa để tế yên vị và làm lễ tế chính. Tế
rã hội do các cụ trong đội tế nam quan đảm nhiệm. Tế xong, rước tượng
ba vị thần thành hoàng (tam vị đại vương) trở lại yên vị tại
Đình.
Như thế, so với trước đây, quy
trình rước tượng đã thay đổi. Việc rước được định lại cứ 3 năm một
lần tổ chức rước tượng, còn hàng năm, chỉ rước bài vị. Chu trình rước ngày nay là: rước 3 vị thần thành
hoàng từ đình ra Chùa, hết hội, lại rước ba vị về đình an vị. Ngày
8 tháng 3 xưa chỉ còn tổ chức lễ dâng hương 1 ngày ở Đình và Chùa.
Ngày giỗ Đức thánh cả tiến hành tại chùa vào 10 tháng 10 âm lịch cũng chỉ diễn ra 01
ngày.
Hiện nay, việc tổ chức lễ hội
tại địa phương còn bổ sung thêm một số chi tiết như sau:
Đoàn rước theo thứ tự gồm các em
học sinh cùng các lực lượng đoàn thể Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến
binh, Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Hội người cao tuổi, Đội văn nghệ, Đội tế
nam, Đội tế nữ, Tổ nhạc lễ và các vị đại diện Đảng bộ, Chính
quyền, các cơ quan đoàn thể của huyện và của địa phương cùng khách
thâp phương và nhân dân trong xã. Cờ Tổ quốc, cờ hội, cờ phướn, băng
dôn…nhấp nhô thấp thoáng trong tiếng trống, tiếng nhạc theo đoàn người
đi trên đường kéo dài cả cây số. Hành trình đoàn rước bắt đầu từ
Chùa Cảnh Linh, khi đến ngã ba, đoạn có lối rẽ ra nghĩa trang liệt
sĩ và về đình Dưỡng Thái, một phần của đoàn rước gồm các em học
sinh tiểu học, Đội tiêu binh của Hội Cựu chiến binh và một số đại
biểu Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể của địa phương vào
nghĩa trang thắp hương viếng mộ liệt sĩ. Phần còn lại của đoàn rước
(chiếm đại đa số lực lượng rước lễ) tiến về Đình, làm các thủ tục
tế lễ và làm lễ nghinh thần rước tam vị đại vương lên kiệu. Hợp với
đoàn viếng nghĩa trang liệt sĩ về tới đình, đoàn rước vê chùa Cảnh
Linh dự lễ khai mạc, dâng hương. Đội nữ quan thực hiện tế ngoại táng
tại Chùa .
Phần hội diễn ra ngay sau lễ dâng
hương gồm các chương trình biểu diễn văn nghệ của bản xã và các đội
văn nghệ các huyện bạn Gia Lộc, Kinh Môn (thị trấn Phú Thứ, Thôn Huề
trì - An Phụ)… , thi đấu các môn thể thao bóng chuyền, cầu lông, cờ
tướng, trò chơi dân gian như chọi gà.
Sáng ngày 12 tháng Giêng đội Nam
quan của Hội Người cao tuổi thực hiện tế giã hội, Ban tổ chức tiến
hành Bế mạc lễ hội.
Hội Xuân tại khu di tích Đình
Chùa Dưỡng Thái hiện đang diễn ra đúng nghĩa hội làng, trong đó không
chỉ tổ chức riêng cho di tích xếp hạng quốc gia mà còn bao gồm cả
Chùa Quýt với ý nghĩa như một quần thể di tích tại địa phương. Đó
cũng là chủ trương của Đảng bộ và chính quyền xã Phúc Thành, với
mong muốn có một sinh hoạt văn hóa tâm linh rộng rãi cho người dân bản
xã.
Th.s.Nguyễn Huy Thiêm
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Đại Việt sử ký toàn thư.- H.,
Nxb.Khoa học xã hội.
T.I- 1968
T.II- 1971
T.III, T.IV- 1972.
2. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX.- H., Nxb.Khoa
học xã hội, 1981.
3. Niên biểu Việt Nam.- H., Nxb.Khoa
học xã hội, 1984.
4. Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam.-
H., Nxb.Khoa học xã hội, 1991.
5. Hải Dương di tích và danh thắng.-
Hải Dương, Sở Văn hóa thông tin xuất bản.- 27 cm.
T.1 - 438 tr., 1999.
6. Hồ sơ di tích xếp hạng và tài liệu
kiểm kê di tích Đình Chùa Dưỡng Thái, Phúc Thành, Kim Thành.- Bảo tàng Hải
Dương.
7. Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Phúc
Thành (1930-2005). Lưu hành nội bộ.- Hải Dương, Ban chấp hành Đảng bộ xã Đại
Đức, 2006.- 240 tr., 19 cm.
8. Tài liệu sao chụp do Ban quản lý di
tích Đình Chùa Dưỡng Thái cung cấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét