Vào những ngày cuối tháng 11, một
chuyến du khảo Hà Giang đặc biệt hữu ích được tự nguyện tổ chức bởi một nhóm
nhà giáo lão thành thuộc Hội cựu giáo chức và một số hội viên Hội nghiên cứu lịch
sử, một số văn nghệ sĩ tỉnh Hải Dương. Đoàn do NGUT Hoàng Văn Nguyện và ông Tăng
Bá Hoành- Chủ tịch Hội Sử học tỉnh dẫn đầu.
Những mục tiêu hướng đến cho chuyến đi là Cao nguyên đá Đồng Văn, Nhà cổ vua
Mèo Họ Vương (Vương Chính Đức), cột cờ Lũng Cú trên địa đầu Tổ quốc...
Điều
đặc biệt của chuyến đi chính là độ tuổi của các thành viên trong đoàn. Người
cao tuổi nhất đã 83 tuổi. Đa số thành viên còn lại trong đoàn có độ tuổi từ 65
đến ngoài 75 tuổi. Đủ thấy, nỗi ước mong được một lần đặt chân đến những danh
tích nơi địa đầu Tổ quốc của các bác, các cụ thôi thúc bước chân "tuổi cao
chí càng cao" mãnh liệt đến thế nào?
Vượt
qua chặng đường hơn 474 kilomet với khoảng thời gian 11 tiếng đồng hồ đoàn cũng
đặt chân lên đất Yên Minh, nghỉ ngơi qua đêm để 5h 30 sáng ngày hôm sau di chuyển
lên Cao nguyên đá Đồng Văn.
Theo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia trên Internet, Cao nguyên đá Đồng Văn được mô tả:
..."Cao
nguyên đá Đồng Văn (hay Sơn nguyên Đồng Văn) là một cao nguyên đá
trải rộng trên bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc
của tỉnh Hà Giang.
Ngày 3/10/2010, hồ sơ “Công viên Địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn” đã được Hội đồng
tư vấn Mạng lưới Công viên Địa chất Toàn cầu (GGN) của UNESCO chính thức công
nhận là Công viên địa chất Toàn cầu. Đây hiện là danh
hiệu duy nhất ở Việt Nam và thứ hai ở Đông Nam Á.
Cao
nguyên có nhiều khu vực núi đá vôi nằm
sát chí tuyến Bắc, có độ dốc khá lớn. Các thung lũng, sông, suối bị
chia cắt nhiều.
Độ
cao trung bình từ 1.000 – 1.600 m.
Nhiều
mẫu hóa thạch của các loài đã
được tìm thấy có tuổi cách đây 400 - 600 triệu năm. Cao nguyên Đồng Văn
là một vùng núi đá có tuổi khác nhau từ kỷ Devon cho
đến Pecmi,
được bao quanh bởi các núi đất. Ở đây có mưa từ tháng 4 đến tháng 9,
nhưng thiếu nước vào mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 4).
Hiện
khu vực cao nguyên đá Đồng Văn là nơi cư ngụ của khoảng 250.000 người dân thuộc 17 dân tộc thiểu số khác
nhau của Việt Nam. Từ tháng 4 năm 2010, hồ sơ cao nguyên đá
Đồng Văn được đệ trình UNESCO công
nhận là công viên địa chất toàn cầu. Đây cũng là
công viên địa chất toàn cầu đầu tiên của Việt Nam.
Hồ
sơ cao nguyên đá Đồng Văn được quốc tế đánh
giá cao, đầy đủ các dữ liệu về địa chất khoáng sản, về
tài nguyênmôi trường. Đặc biệt là UNESCO đánh
giá rất cao về bản sắc văn hoá của
các dân tộc sống trên cao nguyên đá Đồng Văn. Đây là đặc trưng rất lớn của Công
viên địa chất cao nguyên đá Đồng Văn nằm trong hệ thống công viên địa chất toàn
cầu. Việc cao nguyên đá Đồng Văn trở thành Công viên Địa chất toàn cầu là rất ý
nghĩa đối với đồng bào dân tộcHà Giang.
Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc
biệt, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát
triển vỏ quả đất, những hiện tượng tự nhiên,
cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao
và truyền thốngvăn hóa lâu đời
của cộng đồng cư dân bản địa.
Cao nguyên đá Đồng Văn có đủ các yếu tố hội tụ để trở thành
công viên Địa chất toàn cầu: diện mạo địa chất khoáng sản, tài nguyên thiên
nhiên phong phú; có bản sắc văn hoá cũng hết sức độc đáo và ấn tượng như văn
hoá của dân tộc H'Mông, Người Lô Lô, Pu Péo, Dao. Cao nguyên đá cũng là
nơi có nhiều di tích danh lam thắng cảnh quốc gia đã được công nhận
như: Di tích kiến
trúc nhà Vương, Cột cờ Lũng Cú, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pí Lèng, núi Đôi Quản Bạ v.v..."
Lô xô núi non ven những con đèo hiểm trở, những khúc cua
tay áo đến lạng người khung cảnh bên đường ngày mỗi hùng vĩ. Vượt qua cổng trời
Quản Bạ, vào thăm Di tích nhà cổ họ Vương tận mắt ngắm nhìn kiến trúc khác biệt
của dinh thự Vua Mèo, những di vật, mộ chí...vương đôi chút tiếc nuối về cái
"chưa tới" mà ngành bảo tàng, văn hóa du lịch Hà Giang chưa làm được
cho thỏa bước khách vãng du.
Trên đường lên cột cờ Lũng Cú, bên đường dốc cheo leo đây
đó thấp thoáng những bản làng người Mông giữa cây lá, đá treo. Thi thoảng gặp
những nhóm người dân đi bộ gùi cây ven đường, trẻ con lầm lũi đi học giữa giá
rét. Dưới thung, thảng gặp những mái trường tiểu học, trung học cơ sở nội trú. Kia
là hồ treo xã Xà Phìn huyện Đồng Văn với dung tích chứa 3.000 m3. Hồ được tích
nước từ các mạch nước phát lộ trong mùa mưa nhằm cung cấp nước sinh hoạt cho đồng
bào vào mùa khô. Trên vùng Cao nguyên đá của Hà Giang, những chiếc hồ treo chứa
nước trên núi đẹp lunh linh như những viên ngọc trên vùng “đất khát”.
Cả đoàn, kể cả người cao tuổi nhất đã xúc động đặt chân lên
từng bậc thang dẫn lên cột cờ Lũng Cú, tận tay vuốt ve lá cờ Tổ Quốc tung bay
trong sương giá. Vẻ đẹp cột cờ đúng như Bách khoa toàn thư mở Wikipedia mô tả:
..."Cột cờ Lũng Cú là một cột cờ quốc
gia nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) có độ cao khoảng
1.700m so với mực nước biển, thuộc xã Lũng Cú,
huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang,
nơi điểm cực Bắc của Việt Nam.
Từ trên đỉnh cột cờ nhìn xuống đất có 02 ao nước hai bên núi quanh năm không
bao giờ cạn nước được gọi là mắt rồng, là nguồn nước cho đồng bào dân tộc hai bản
sử dụng.
Cột cờ Lũng Cú có lịch sử rất lâu đời, trải qua nhiều lần
phục dựng, tôn tạo. Cột cờ mới hình bát giác có độ cao trên 30m được khánh
thành ngày 25 tháng 9 năm 2010.
Cột cờ Lũng Cú nằm trên đỉnh Lũng Cú với độ cao khoảng
1.700m so với mực nước biển. Đây là một điểm nhỏ trên đoạn đường biên giới Việt
Nam-Trung Quốc. Nếu mô phỏng một cách tương đối hình dạng đường biên
giới Việt Nam-Trung Quốc thành một chóp nón thì hai điểm thấp nhất theo vĩ độ là A pa Chải- Điện Biên và Sa Vĩ- Móng Cái,
còn Lũng Cú là đỉnh của chóp nón này cũng là điểm cao nhất của cực Bắc Việt
Nam.
Cảnh quan dưới chân cột cờ là núi non trùng điệp xen kẽ bởi
những khoảnh ruộng bậc thang tạo nên một vẻ đẹp rất
hoang dã, đặc trưng của vùng Tây Bắc địa đầu của Việt Nam.
Cột cờ Lũng Cú được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt và ban đầu chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc,
năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục
được trùng tu hoặc xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo
thời gian, trong đó năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ
cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Trên đỉnh cột là cán cờ
cao 9m cắm quốc kỳ Việt Nam có có chiều dài 9m, chiều
rộng 6m và tổng diện tích rộng 54m2, tượng trưng cho 54 dân tộc cùng chung sống
trên đất nước Việt Nam."
Lịch sử xây dựng cột cờ được trang thông tin điện tử tỉnh
Hà Giang cho biết:
..."Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà
Giang đã có văn bản chỉ đạo Ủy ban Nhân dân huyện Đồng Văn tiến hành tháo dỡ cột
cờ Lũng Cú cũ và tiến hành trùng tu, tôn tạo và xây dựng mới. Theo thiết kế cột
cờ mới được xây dựng với chiều cao 33,15m (hơn cột cờ cũ 10m) trong đó phần
chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m. Kiểu dáng bát giác của
cột cờ khá gần với kiểu cột cờ Hà Nội. Chân, bệ cột cờ có 8 mặt phù
điêu bằng đá xanh mô phỏng hoa văn mặt của trống đồng Đông Sơn và những họa tiết minh
họa các giai đoạn qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người, tập
quán của các dân tộc ở Hà Giang. Thân cột cờ có cầu thang bộ đi lên đỉnh. Trên
đỉnh cột là quốc kỳ Việt Nam với cán cờ cao 12,9m và lá cờ, cũng tương tự như
những lá cờ sử dụng trước đó, có diện tích 54m2.
Đường lên đỉnh núi có cột cờ cũng được xây dựng lại với 839
bậc đá lên theo lối cũ và đồng thời xây một lối đi mới cũng có số lượng bậc là
839 đi xuống. Dưới chân cột là nhà lưu niệm trưng bày các dụng cụ lao động,
trang phục, sản phẩm văn hóa của các dân tộc Hà Giang.
Với khoảng 20,8 tỷ đồng trong đó vốn ngân sách Nhà nước 3 tỷ
đồng, vốn tài trợ của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam 15 tỷ đồng và Công ty Cổ
phần Đầu tư Hạ tầng Kinh doanh đô thị Hà Nội 6,9 tỷ đồng, cột cờ mới đã được
xây dựng trong 7 tháng, và khánh thành vào ngày 25 tháng 9 năm 2010. Vào thời
điểm khánh thành cột cờ, lá cờ trên đỉnh cột được lắp trong cán cờ làm bằng
nguyên một thân cây gỗ pơ mu cao gần 13m.
Ngày 08-03-2010 cột cờ quốc gia Lũng Cú đã được khởi công
nâng cấp lại và đến ngày 02-09-2010 đã hoàn thành; hiện nay cán cờ được làm bằng
inox."
Riêng về Trạm bảo vệ cờ Lũng Cú, trang thông tin điện tử
cho biết:
..."Đồn biên phòng Lũng Cú nằm dưới chân núi, cách cột
cờ khoảng 12 km, có nhiệm vụ chính bảo vệ 25,5 km đường biên giới Lũng
Cú giáp Trung Quốc. Tương truyền tại địa điểm dựng đồn biên phòng này, từ thời Tây Sơn sau
khi đại thắng quân xâm lược phương Bắc, hoàng đế Quang Trung đã cho đặt một chiếc trống đồng
rất lớn và cứ mỗi canh giờ trống lại được gióng lên ba hồi vang xa như để khẳng
định chủ quyền đất nước. Chính vì thế, Lũng Cú khi đọc chệch âm sang âm tiếng H'Mông là Long Cổ, tức trống của
vua, và người H'Mông tại nơi đây hầu như đều biết đánh trống đồng. Rất có thể
cũng vì một trong những lý do nói trên mà nhà nước Việt Nam khi xây dựng cột cờ
đã đặt phù điêu trống đồng Đông Sơn dưới chân cột.
Hiện nay tại đồn biên phòng Lũng Cú có một trạm chuyên làm
nhiệm vụ bảo vệ lá cờ trên Cột cờ Lũng Cú này và hầu như cứ khoảng 1 tuần hoặc
lâu nhất là 10 ngày cờ lại phải được thay mới, do sức gió trên đỉnh Lũng Cú rất
mạnh khiến cờ dễ hư hỏng. Theo cán bộ của trạm, lúc nào trong trạm cũng có hàng
chục lá cờ lớn cỡ 54m2 để dự phòng".
Với mỗi thành viên trong đoàn, giây phút được áp mặt vào lá
cờ Tổ Quốc mềm mại giữa giá rét Đồng Văn - Lũng Cú có thể sẽ là dấu ấn đặc biệt
trong cuộc đời. Trên đỉnh cao 1.700 met so với mặt nước biển, ngắm nhìn giang
sơn gấm vóc dưới chân núi mới thấy thấm thía công lao của tổ tiên, của muôn vàn
máu xương nhiều thế hệ để giành được nền độc lập tự do cho đất nước gấm hoa. Chuyến
đi đã kết thúc mỹ mãn. Những thành viên trong đoàn, nhiều người đã ở tuổi
"xưa nay hiếm" bằng lòng với quyết định khởi xuất ban đầu: "Đi để
biết cho hết những điều kỳ thú của đất nước, để đặt bước chân - dù đã già yếu
theo tuổi tác đến được nơi mình mong ước, mong ước một lần đặt dấu lên địa đầu
biên giới phía Bắc thiêng liêng của Tổ quốc". Và dưới đây là một số hình ảnh
(trong hàng trăm bức ảnh) ghi lại chuyến đi hiếm có này.
Ngày 28 Tháng 11 năm
2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét