NHA TRANG MÙA THU

NHA TRANG MÙA THU
MẮT BIỂN MÙA THU

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

NHỮNG NGƯỜI BẠN CỦA TÔI.

Cách nay hơn một năm, trên những trang viết trên Blog này tôi đã “khoe” về một tập thể có chung một nỗi đam mê: “đam mê ca hát”. Mà không phải của người trẻ; người trẻ nói đến hát xướng có vẻ là thừa, vì đó vốn là bản tính của lứa tuổi khi cuộc đời đang hồ hởi nếm trải niềm vui sống, khát khao hạnh phúc, yêu thương và chia sẻ. Điều tôi nói đến khi  đó là niềm đam mê ca hát của người có tuổi. Trong tập thể với một số ít người ngót ngét…bảy mươi ấy, đa số đã ngoài lục tuần, số còn lại được cho là “trẻ” cũng hơn năm mươi cả rồi. Họ tự nguyện tập hợp nhau lại, trên nền tảng một tổ chức từng có từ thời chống Mỹ cứu nước: “Đội văn nghệ xung kích thành phố Hải Dương”. Đã có ý tưởng làm mới bằng cách tự gọi mình là đội văn nghệ “Tiếng hát mãi xanh” hoặc “Nhóm nhạc Thời gian”…Rồi ký ức tuổi trẻ lại thuyết phục họ lấy lại tên “Đội văn nghệ xung kích” dù biết rằng, môi trường để tồn tại cái tên này…khó có thể quay lại được. Dù sao, cái tên cũng không quan trọng bằng sự tập hợp có tổ chức, có sinh hoạt định kỳ và có “mục tiêu hát” cụ thể. Hát để thỏa mãn niềm đam mê, hát để biết rằng mình “còn trẻ, còn khỏe”; hát cho nhau nghe, hát với bạn bè và còn “hát cho đồng bào tôi”…nghe được.


 
Cũng cần phải “vân vi” đôi chút về ký ức cá nhân từ hàng chục năm đã qua. Tôi nhớ mình được học nhạc lý từ những năm 1960 – 1961, khi trong chương trình học cấp hai khi đó dậy lên “trào lưu” dạy nhạc, họa ngoại khóa cho học sinh (tất nhiên là người học tự nguyện học ngoại khóa) của ngành giáo dục. Chỉ đơn giản là mấy chục tiết ký âm phổ thông, mấy chục tiết học vẽ cơ bản. Ấy vậy nhưng lũ chúng tôi hồi đó, dù là dân thành thị có đứa đi học còn mặc…quần đùi cũng ham vui theo sự hướng dẫn của các thày cô giáo học nhạc, học vẽ, học hát, học múa và cả học…múa rối nữa. Đội múa rối của trường chúng tôi- trường phổ thông cấp II Trần Phú thị xã Hải Dương còn được vinh dự lên tận…Hà Nội tu nghiệp cả tuần lễ tại “Đoàn múa rối nhân dân Trung ương”- Tên khởi đầu của “Nhà hát múa rối Trung ương” bây giờ. Chương trình học được tổ chức bởi cô  giáo Bùi Thị Nha, giáo viên dạy sinh vật (phu nhân Thày Nguyễn Tự Phú- khi đó là phó ty Giáo dục Hải Dương, sau giữ chức vụ Trưởng ty: trước khi nghỉ hưu Thày phụ trách công đoàn ngành Giáo dục Việt Nam). Học đến mức đem được cả một vở rối tay “Con thỏ ngọc” về thị xã Hải Dương tham gia hội diễn văn nghệ thiếu niên, nhi đồng. Trong cả nước khi ấy, ngoài đội Múa rối cung Thiếu nhi Hà Nội, cái đội múa rối thiếu nhi bọn tôi thuộc cỡ hàng hiếm tỉnh lẻ. Cũng kiếm đất sét nặn vắt làm cốt, bồi giấy báo làm hình nộm nhân vật rồi hì hục tô vẽ mắt mũi mồm miệng, đám con gái hí húi may trang phục cho lũ rối tay…Những bước chập chững ban đầu ấy cứ thế lôi tôi  theo nghiệp …văn nghệ nghiệp dư. Lên đến cấp III, vừa vào lớp tám, tôi theo một ông anh lớp trên học sáo trúc. Ông thày dạy nhạc cụ đầu tiên ấy là Anh Nguyễn Văn Thắng, nay là Lương y Giám đốc Công ty cổ phần Đông nam dược Đức Thắng- chính là “phu quân” một đội viên của đội văn nghệ xung kích. Chiến  tranh phá hoại của giặc Mỹ lan đến cửa ngõ thị xã sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (5/8/1964), lúc đó tôi mới 15 tuổi theo các anh các chị thanh niên tham gia “Đội ca nhạc thanh niên thị xã Hải Dương” do Thị Đoàn Thanh niên lao động (năm 1970 đoàn thanh niên mới mang tên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) tổ chức. Đội văn nghệ này do Anh Sái Văn Đồng (Anh đã mất khoảng năm 1999 - 2000 gì đó; nguyên là Giám đốc Sở Thể thao Tỉnh Hưng Yên) là cán bộ Thị đoàn Hải Dương làm đội trưởng. Tôi theo các anh các chị suốt, hết tham gia các chương trình văn nghệ tại các tụ điểm, lại chia nhau hát phục vụ trước giờ chiếu phim ở hai rạp chiếu phim “Hòa Binh” và Rạp chiếu phim Thiếu nhi thị xã – Rạp “Thống nhất”. Vai của tôi là đệm sáo trúc cho các chị hát đơn ca, tốp ca.  Nào là “Xuân chiến khu”, “Bài ca hy vọng”, “Biết ơn chị Võ Thị Sáu”, “Quảng Bình quê ta ơi”….Năm 1966, có chủ trương thành lập các đội Thanh niên xung phong cơ sở, đội văn nghệ này được mang tên “Đội thanh niên tuyên truyền xung phong chống Mỹ cứu nước”. Đội này được “đặc cách” không phải đi sơ tán khỏi thị xã mà phục vụ các đơn vị trực chiến trong nội thị. Tôi vẫn đi học một buổi và nhiệt tình tham gia với đội ngoài giờ học. Tháng 8 năm 1966, được Đoàn trường cấp III Hồng Quang cử tham gia lớp tập huấn văn nghệ phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” do Ty Văn hóa Hải Dương tổ chức ở xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc. Lớp này do Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Vinh phụ trách.  Nhạc sĩ Trọng Vinh khi đó dáng người mảnh khảnh, trẻ trung, hiền hậu vui tính và rất quý lũ thanh niên bọn tôi. Chương trình học là các bài hát và múa tập thể cho thanh niên. Lớp học được các cán bộ phòng Văn nghệ Ty văn hóa và hai học sinh trường âm nhạc và múa Việt Nam hướng dẫn. Một nam và một nữ. Người thanh niên có tên là Hứa và người con gái tên là Nhân. Tôi làm quen và kết thân với cả hai. Anh Hứa có giọng nam trung vang và khỏe. Anh bảo tôi: “Cậu có giọng, chịu khó luyện thanh thì hát nghe được đấy”. Anh bày tôi cách lấy hơi (cái này thì tôi có cơ bản vì đã từng học sáo trúc) và tập luyện thanh, cộng minh…Sau khóa học, tôi về trường và làm bạn bè cùng lớp (lớp 9) tròn mắt khi chẳng những vẫn độc tấu sáo trúc bài “Lý hoài nam”, “Anh vẫn hành quân”… mà còn hát khá chững chạc những “Ta lại đào công sự”, “Em bé Bảo Ninh”... Thày Huy Giao (em ruột nhạc sĩ Huy Du) dạy sử trường Hồng Quang bảo tôi: “Em hát còn hay hơn thổi sáo, cứ hát thôi”. Thế  là tôi “chỉ hát thôi” và theo học ghi ta một anh học sinh lớp trên - Anh Ngọc Quang, vốn là kiều bào Việt Nam ở Thái Lan về nước. Anh Quang chơi ghi ta Clasic rất giỏi. Học kỳ một năm lớp 10, cùng với các anh chị lớp trên và bạn bè cùng khóa, bọn tôi có cả một chương trình ca nhạc được thu thanh tại Đài truyền thanh Tỉnh Hải Dương, khi đó còn nằm dưới tầng hầm căn nhà kiểu biệt thự do Pháp xây của cơ quan tỉnh ủy Hải Dương bây giờ. Hết cấp ba, tôi đi học đại học. Tháng 5 năm 1968 đội văn nghệ xung kích chống Mỹ cứu nước thị xã Hải Dương chính thức được thành lập do phòng thông tin thị xã quản lý. Anh Nguyễn Trung Đoàn, khi đó vừa tốt nghiệp trường sân khấu điện ảnh Hà Nội thay mặt phòng Văn hóa Thông tin thị xã theo dõi hoạt động của đội. Nhân một buổi về thăm nhà ngày nghỉ lễ (năm 1969), tôi ghé qua dự một buổi sinh hoạt của đội rồi tình nguyện hàng tuần “vác đàn” về cùng hướng dẫn, dựng bài với các anh chị em. Bài hát “Ca ngợi Tổ quốc” do đội hát, và nay là bài “tủ” của đội được hướng dẫn và dựng vào thời kỳ này. Tôi còn “bạo gan” soạn biến tấu bài hát “Vũ khúc Tây Nguyên” (không biết tác giả là ai, nhưng năm 1964 từng được Trường cấp ba Hồng Quang mời người dựng hoạt cảnh múa) thành…nhạc múa dựng cho tiết mục múa “Vũ khúc Tây nguyên” cho đội. Nhạc đệm ban đầu chỉ có mỗi cây ghi-ta của tôi và chiếc Acoocdeon của Anh Nguyễn Minh Chính. Hoạt cảnh múa này được tốp múa của đội biểu diễn suốt các năm 1969 – 1972. Cùng lúc và một năm sau đó, tiết mục múa này còn được dựng cho tốp múa Lớp Cây lương thực 12 A- Đại học Nông nghiệp I Hà Nội và tốp múa lớp Đại học Thư viện khóa 5 – Đại học Văn hóa Hà Nội. Ở cả hai môi trường đại học này, tiết mục khi tham gia Hội diễn sinh viên đều đạt giải cao.
Sau hơn bốn mươi năm, “Đội văn nghệ xung kích” tập hợp trở lại vào tháng Tư năm 2012 (chuyện đã được đăng tại bài viết “Mùa thu và sự trở lại niềm đam mê” – lên trang blog này vào ngày 8 tháng 5 năm 2012) với cốt cán là một số đội viên năm xưa. Hai năm qua, đội đã có 22 thành viên. Bình quân một tuần tập 2 buổi, khi gần ngày biểu diễn hoặc giao lưu tập đến bốn buổi một tuần. Số buổi tập tính đến nay cũng ngót 150 buổi. 18 ca khúc được tập luyện, dàn dựng – chỉ tính hợp ca, tốp ca; hơn 20 tiết mục đơn ca song ca…Đội đã tham gia 16 buổi biểu diễn giao lưu nhân dịp các ngày lễ lớn; Tết dương lịch, Tết nguyên đán…trong các năm 2012 – 2013; phục vụ Họp mặt truyền thống Cựu chiến binh trung đoàn 2 Quân khu 3, tham gia biểu diễn “Giao lưu nghệ thuật Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII” do Sở VHTT&DL tỉnh Hải Dương tổ chức…
Ngoài hoạt động văn nghệ, đội còn tổ chức dã ngoại du lịch sinh thái; thăm hỏi động viên đội viên và gia đình ốm đau, tang hiếu. Từ ngày thành lập trong những năm kháng chiến chống Mỹ đến giai đoạn đất nước đổi mới một số đội viên, nhạc công đã qua đời. Liên tiếp hai năm qua, những người Anh lớn tuổi của Đội như Anh Nguyễn Trung Đoàn, Anh Nguyễn Minh Chính cũng từ giã gia đình và bạn bè đi vào cõi vĩnh hằng để lại bao tiếc thương cho các thành viên trẻ…
Khi ngồi bên nhau, chúng tôi thường hàn huyên lại bao kỷ niệm xưa, tâm sự với nhau chuyện mình, chuyện đời và chợt nhận thấy rằng chúng tôi đã hát “trước nhất là cho nhau nghe”. Điều đó bao hàm sự chia sẻ tình cảm, sự nương tựa tinh thần – điều mà người cao tuổi cần hơn cả. Sức khỏe tinh thần, sự dựa đỡ nhau vượt lên mọi khó khăn, thậm chí bệnh tật và những nỗi niềm thiếu thốn tình cảm. Ngoài gia đình, tập thể người hát “tuổi cao, chí càng cao” ngày mỗi bền chặt. Dù chỉ là những người hát nghiệp dư, trưởng thành từ phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” năm nào và sinh hoạt văn nghệ “Làng, Khu dân cư văn hóa” hiện nay thì họ cũng xứng đáng nhận được sự đón nhận hào hứng của cộng đồng dân cư. Đằng sau tuổi tác, họ là những người có tâm hồn thật trẻ với niềm đam mê dường như muốn mãi đem theo suốt đời. Họ vẫn hát với nhiệt tình cháy bỏng, như hát về tuổi trẻ của chính mình. Có lần, tôi đã thốt lên thật lòng với họ: “Tôi yêu tất cả các bạn!”.
          Họ đây, hãy cùng ngắm xem. Rất đẹp, rất vui và trẻ trung. 








































Không có nhận xét nào: