Năm mươi năm trước, cũng khung thời gian này, chúng tôi vừa kết thúc hành trình 10 năm học
phổ thông giữa không gian đáng sợ của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt
nam bằng không quân của nước Mỹ. Tuổi trẻ non nớt đang còn trong vòng tay gia
đình khi ấy đứng trước rất nhiều thách thức; thách thức của thân phận cá nhân
trước tương lai không biết trước, của nghề nghiệp lập thân trước bước dấn thân
vào trường đời…Quá nhiều thử thách, quá nhiều điều không biết rõ, quá nhiều xáo
trộn đầu đời! Chúng tôi đã kết thúc tuổi học trò phổ thông trong tâm thế như vậy,
với nỗi lo hành trang cuộc sống như vậy…
Với mỗi người chúng tôi, ý nghĩa của
hai chữ “đồng môn” có rất nhiều cơn
cớ. Không ít anh chị em là đồng môn vì sống cùng một không gian sống, cùng là học
trò. Có nhóm anh chị em là đồng môn với nhau suốt tuổi học đường, từ vỡ lòng, tập
chép, cấp một, cấp hai rồi cấp ba. Nghĩa đen là từ hồi “quần cộc, chân đất, guốc
mộc, tóc đuôi gà”…Trong cái thị xã bé nhỏ thân thuộc, sự quen biết, rồi vui
chơi học hành vậy là chuyện thường. Cũng có nhóm từ trường nam tiểu học Tô Hiệu,
trường nữ tiểu học Võ Thị Sáu …nhờ có sự hòa trộn học hành mà trai gái biết
nhau; rồi cũng nhờ lên cấp ba mà học sinh hai trường Trần Phú, Ngô Gia Tự thị
xã Hải Dương …biết nhau, trở thành học sinh cùng khóa, cùng trường. Dưới khuôn
trời yên tĩnh thân quen của một thị xã tỉnh lỵ, chúng tôi hầu như đã là đồng
môn từ rất lâu, rất bền. Để tới lúc tựu trường cấp ba Hồng Quang tháng 9 năm
1964 khi sát cánh bên nhau trên sân trường, chúng tôi đã quen biết, thuộc mặt
nhau rất nhiều. Do số trường cấp Ba trong tỉnh khi đó còn ít, một số anh chị em
học sinh các xã gần thị xã Hải Dương thuộc các huyện Gia Lộc, Thanh Hà, Cẩm
Giàng, Tứ Kỳ…khi tốt nghiệp cấp Hai chọn trường cấp III Hồng Quang để học lên tạo
cơ hội để chúng tôi có thêm nhiều bạn học ở các huyện lân cận trở thành bạn đồng
môn cấp Ba.
Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau sự kiện
Vịnh Bắc Bộ, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Băc Việt nam bùng phát rồi leo
thang. Tháng 11 năm 1965 (Chính xác là ngày 5 tháng 11) nhiều khu vực trên địa
bàn tỉnh Hải Dương bị máy bay Mỹ bắn phá, chiếc F8U của không quân Mỹ đầu tiên
bị bắn rơi tại khu vực cầu Lai Vu – Kim Thành. Không khí chiến tranh, bom đạn
đã thực sự chen vào cuộc sống bình yên của thị xã. Giống nhiều trường học và cơ
quan nhà nước trên địa bàn, việc học hành của chúng tôi cũng chuyển trạng thái.
Thay đổi giờ học, sơ tán trường lớp ra khỏi địa bàn thị xã. Chúng tôi theo lớp
học về xã Việt Hòa, huyện Cẩm Giàng; giờ học bắt đầu từ rất sớm (4h00 sáng vào
học, 8h30 – 8h45 kết thúc)…Nhiều bạn cùng gia đình sơ tán về các huyện lân cận
như Gia Lộc, Tứ Kỳ, Cẩm Giàng…Trường tổ chức lại các lớp (giảm số lớp), sĩ số mỗi
lớp cũng giảm nhiều. Chúng tôi đến lớp từ mờ sáng với mũ rơm, áo sẫm màu. Thậm
chí mũ rơm còn to hơn người. Nơi học sơ tán có hầm hào tránh bom, nhiều thày
cô, bạn học trọ tại nhà dân …Nhiều thày cô giáo cũng được phân công bổ sung về
các huyện; các trường cấp 3 của các huyện trong tỉnh cũng tăng lên đủ mỗi huyện
một trường, bạn bè cùng khóa sơ tán về các huyện đều có chỗ học tập. Đó cũng là
sự kiện đánh dấu lần đầu tiên khóa học chúng tôi xa nhau. Các năm học 1965 –
1966, 1966 - 1967 ngày càng khó khăn vì chiến tranh phá hoại leo thang, các lớp
học nhiều lần chuyển chỗ để rồi năm học 1966 – 1967 số còn học cấp ba ở thị xã chuyển
về Cương Xá, Bảo Thái xã Tân Hưng (Tứ Kỳ cũ). Những năm tháng này, trong số học
sinh chúng tôi đã có người lên đường nhập ngũ tham gia cuộc chiến chống Mỹ cứu
nước. Tại điểm học cuối cấp này, chúng tôi kết thúc 10 năm học phổ thông vào
tháng 6 năm 1967. Kỳ thi tốt nghiệp phổ thông cũng là sự kiện đánh dấu lần chia
tay thứ hai của chúng tôi, số bạn học còn lại của khóa học 1964 – 1967 tại trường
cấp III Hồng Quang.
Kết thúc phổ thông, chúng tôi thuộc lứa
đầu của tuổi trẻ "Ba sẵn sàng", rồi sau đó nhiều anh chị em tham gia
"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" trên cương vị người lính, thanh niên
xung phong, dân quân hỏa tuyến, công nhân quốc phòng...Chẳng phải đó là lứa người
trẻ bước thẳng vào những va đập khói lửa chiến tranh thời kháng chiến chống Mỹ
đó sao?! Nay trong chúng tôi, có nhiều thày giáo, học trò là liệt sĩ, thương bệnh
binh, cựu chiến binh. Tuổi trẻ thời đó là vậy. Nhiều anh chị em chúng tôi khi kết
thúc việc học đã đi thẳng vào cuộc sống lao động kiếm sống, làm công nhân cầu
đường, thợ đường dây, cơ khí, theo chân các đoàn địa chất, lái xe…Một bộ phận
được tiếp tục đào tạo, học tập tại các trường đại học, trung cấp, cao đẳng…Một
số bạn được cử đi học ở nước ngoài. Số đông học tập trong nước song cũng vất vả
sơ tán rất xa tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Cạn,
Phú Thọ, Tuyên Quang… Giai đoạn 1970 – 1975, nhiều bạn bè của chúng tôi cũng
không được duy trì việc học liên tục mà tham gia quân ngũ. Các bạn được đào tạo
tiếp khi tốt nghiệp cũng công tác, sinh sống rải rác các miền trên đất nước. Đất
nước thống nhất, kết thúc chiến tranh, chúng tôi ngậm ngùi biết tin về những
người bạn đã nằm xuống dọc đường cuộc chiến (4 liệt sĩ)…để lại nhiều tiếc
thương cho gia đình, dòng họ và bạn bè thân thiết.
Cuộc sống trở lại trong hòa bình dựng
xây, từng cá nhân chúng tôi hăng say lao động công tác, lập thân lập nghiệp rồi
xây dựng gia đình tại nhiều địa phương, tỉnh thành. Dù không có điều kiện để gần
gũi, song nhiều bạn bè đồng môn chúng tôi cũng cùng nhau có mặt trong rất nhiều
ngày vui hạnh phúc của nhau, cùng dõi theo cuộc sống bình dị của bạn bè và vẫn
luôn tìm kiếm cơ hội để có thể gặp gỡ. Những manh nha gặp mặt đồng môn cứ lớn dần.
Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, việc này đã có lúc
đẩy tới một vài cuộc gặp gỡ, tiền thân của ý tưởng thành lập Hội đồng môn cấp
Ba Hồng Quang niên khóa 1964 – 1967. Lẻ tẻ đã có các cuộc gặp gỡ của các bạn cùng
lớp trong các năm 1985 – 1995 …
Sau nhiều cố gắng, cộng với lòng nhiệt
thành của một số bạn hữu, khóa học 1964 – 1967 chúng tôi cũng tập hợp được nhau
để có cuộc gặp mặt đầu tiên dưới danh nghĩa tập thể đồng môn vào tháng 9 năm
2002 tại thành phố Hải Dương của hơn 30 bạn cùng 3 thày cô giáo …. Để rồi các
năm tiếp sau, hàng năm chúng tôi gặp gỡ nhau năm sau số lượng đông hơn năm trước,
hình thức gặp gỡ cũng đa dạng sinh động hơn. Những cuộc gặp gỡ kết hợp tham
quan du lịch Côn Sơn Kiếp Bạc – Hải Dương, Điện Biên – Sơn La, Tam Đảo – Vĩnh
Phúc, Sóc Sơn – Bát Tràng…các năm 2005, 2007, 2010, 2012, 2014, 2016….Đặc biệt,
cuộc gặp gỡ nhân kỷ niệm 45 năm tốt nghiệp cấp ba được tổ chức 5 năm trước
(tháng 9/2012) tại Thành phố Hải Dương đã tập hợp hơn 70 bạn, từ nhiều vùng miền
của cả nước. Hoạt động hội đồng môn gắn kết bạn bè, thăm hỏi sức khỏe gia đình,
bạn hữu; tham gia các hoạt động hiếu hỉ con cháu, đưa tiễn các bậc sinh thành,
anh em bạn bè lúc tang gia trên các địa bàn Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng ngày
càng thường xuyên…Những hoạt động đó thật thiết thực, tỏ rõ mối quan tâm đến cuộc
sống, tình cảm gia đình, động viên tinh thần bạn bè người thân anh chị em …
Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 50 năm tốt
nghiệp phổ thông chúng tôi gặp mặt nhau đã thiếu vắng thêm một số khuôn mặt bạn
bè thân thiết vì tuổi cao bệnh nặng.… Các anh chị ra đi đã mãi mãi để lại trong
tâm khảm chúng tôi hình ảnh những người bạn cùng học đôn hậu, hiền lành, nhiệt
huyết. Ở nơi xa, các thày cô, các bạn luôn có chúng tôi những người học trò, những
bạn học thời tuổi trẻ tưởng nhớ đến.
*
*
*
Mới đó thôi, 50 năm bạn bè đã đi qua cuộc đời mỗi người chúng tôi. Tuổi tác nhiều
lên, sức khỏe rồi sẽ suy giảm vì quy luật sinh, lão, bệnh, tử. Nhiều bạn bè
trong chúng tôi cũng không ít thì nhiều đang phải chống đỡ với bệnh tật, nỗi
thiếu vắng gia đình chồng vợ, tuổi cao sức yếu…Song chúng ta luôn có nhau, luôn
hướng về nhau bởi lẽ - dù ở phương trời nào, không gian thời gian nào chúng ta
vẫn luôn là bạn bè của nhau.
Có ai đó từng
nói "đời người như bóng câu qua cửa
sổ". Mới đó thôi, năm mươi năm đã trôi qua. Đời người dài đó mà cũng
ngắn đó. Ngoái nhìn lại, dường như chỉ mới đó thôi.
Gặp nhau khi
tuổi đã bảy mươi, có người hơn bảy mươi. Trong vô số quan hệ xã hội, ngoại trừ
mối thân tình ruột thịt, thân gia, thân quyến, nghĩa tình chồng vợ; tình thân bạn
bè… chúng tôi luôn nhớ đến nhau vì chúng tôi là bạn học của nhau. Mãi mãi là vậy.
Có được 50 năm làm bạn đồng môn với nhau; hỏi có quan hệ nào mà đầy nhân duyên và bền lâu đến vậy không?!...
Còn đây là bài hát "Hồng Quang mái trường thân yêu" do Thày giáo Nguyễn Huy Giao (em ruột cố nhạc sĩ Huy Du) soạn nhạc, Lời do thày Nguyễn Huy Giao và thày Nguyễn Cao Phương viết tặng Trường cấp III Hồng Quang vào năm 1962. Video thể hiện bài hát do tốp nam cựu học sinh trình bày nhân dịp "Họp mặt kỷ niệm 45 năm tốt nghiệp phổ thông" tại Thành phố Hải Dương, tháng 9/2012.
Hải Dương, ngày 12 tháng 9/2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét