NHA TRANG MÙA THU

NHA TRANG MÙA THU
MẮT BIỂN MÙA THU

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019

SẸO NHỤC (TRUYỆN VỪA) - BÌNH DƯƠNG

(Kỳ 27)
(Tiếp theo kỳ trước)
       .......
       Thằng Đán biết được chiếc xe bắt đầu chuyển bánh là nhờ một cú lắc nên thân khiến gã choàng tỉnh sau giấc ngủ mê mệt. Dù đã được cột dây vào thành xe mà những cú xóc, lắc… "hứ… hự" vẫn làm hắn phát hoảng. Chiếc xe chuyển bánh trong tiếng va đập chói tai của đủ thứ rung lắc, rời rã của những khung, những sàn, những bệ tưởng có thể rời rụng ngay ra được. Nếu ông Tưởng không "bó" hắn vào khung vách sau ca - bin bằng dây, hắn có thể rơi lọt xuống đường bất cứ lúc nào. Trời sáng mờ, nặng trĩu sương rừng. Song từ cái chỗ được coi là an toàn của mình, gã vẫn nhìn thấy những lỗ chỗ sàn xe, những thanh gầm rung bần bật ngay dưới chân. Nhìn ra phía trước chỉ thấy mờ sương. Nhìn về phía sau, dưới ánh sáng mờ của chiếc đèn gầm thì chỉ thấy từng vầng bụi dở đen dở vàng cuộn lên sau xe. Mù mịt, rung lắc nghiêng ngả. Bụng nghĩ thôi thì phó mặc cho "ông giời", nhưng dạ cứ bồn chồn vì không biết cái cối xay có bánh này liệu có nghiến thêm cả mình dưới nền đường không, nếu vô phúc…tuột ráo cả mớ dây buộc ngùng ngoằng này.

       Hơn nửa ngày trôi qua trong va đập bầm dập và xóc muốn tung ruột, chiếc xe bỗng có vẻ đi êm hơn, thuần tính hơn. Thằng Đán biết đã qua cung đường bị bom cày phá nát. Chiếc xe bỗng dừng lại. Trời không lóe ra chút tia nắng nào, âm u mù mịt. Đầu óc gã vẫn đang ù lên như nằm trong thùng sắt lăn trên đường đá hộc. Tai nghe tiếng anh Tưởng mà cứ như tiếng vọng xa lắc xa lơ nơi nào vẳng đến.
       - Chú mày chờ tớ chút nhé. Thêm tý nước két đã. Mà phải nghĩ cách cho cậu cả lên trên này thôi. Nhỡ gặp mấy thằng C130 "đi chợ trời" lảng vảng thoi cho mấy quả rocket thì nhào xuống không kịp đâu. Trời mù thế này chưa chắc nó đã "đi tuần đường". Nhưng cứ "cẩn tắc đỡ áy náy" cái đã.
       Sau đó, thằng Đán được cho lên ca - bin thật. Ông Tưởng quá khéo. Chỉ có vài cành cây cỡ bắp tay và dây rừng thôi mà ông ấy đan bện thế nào mà rọ không ra rọ, ghế không ra ghế, cũi không ra cũi găm được lên nửa băng ghế lái sứt mẻ trên ca - bin. Trông thế mà cũng chắc chắn ra phết. Chỉ phải cái nếu ngó kỹ xuống cái đám lò xo ghế gãy vụn chổng ngược lên trời, thằng Đán bỗng nổi gai người khi nghĩ nếu không có đám xoắn vặn dây leo kết thành chỗ ngồi cho nó thì cỗ "bàn tọa" của mình chịu đựng thế nào với đám bùng nhùng ruột ghế sắt thép gớm ghiếc ấy. Cứ là "nát như tương Bần". Tuy nhiên, khi leo lên ngồi, cái chỗ của nó lại cao hơn chỗ ông Tưởng gần một cái đầu. Quăng cho nó chiếc mũ sắt lính lái, anh Tưởng quát khẽ: "Đội vào, giữ lấy cái gáo". Kính buồng lái chẳng còn mảnh vỡ nào dính được trên đó đã đành, mà toàn bộ ca - pô phía trước cũng "sơ tán" đâu hết cả, lộ một đám những máy móc đen xì muội khói dầu mỡ, két nước, cánh quạt và lổn nhổn những bu - gi ốc ác dây nhợ. Hai cánh cửa ca bin chắc đã bay mất dọc đường, được ông Tưởng chọn hai cây gỗ bằng bắp chân gác chéo cài phía trong. Có đổ xe thì cũng không văng được người ngồi trên ca - bin ra ngoài. Ngoái nhìn lại phía sau, gỗ sàn thùng bệ lởm khởm cái còn cái mất. Góc thằng Đán ngồi đêm trước cũng sắp bửa ra đến nơi. Bằng một nhát búa tạ, ông Tưởng khiến nó văng nốt xuống đường. Cả cái xe lúc này trông như cái thuyền mui bằng giấy trẻ con vẫn gấp chơi, với phần còn lại là chiếc ca - bin rách bươm ngất nghểu phía mũi. Gỡ miếng bạt còn vương lại trên khung mái, ông Tưởng gấp thành một cái đệm vuông vức lót lên "cái gọi là ghế" cho thằng Đán ngồi, miệng lẩm bẩm: "Thế này cũng êm chán rồi". Bẻ gói lương khô làm đôi, ông Tưởng giục nó: "Tranh thủ ăn đi, từ giờ ra tới Khe Gát mình sẽ đi một mạch".
       Cung đường tiếp theo có êm hơn đôi chút. Đôi chỗ, xe lại chui vào những mái lá xanh rờn. "Những đoạn như thế này, bọn tớ gọi là đường Trường Sơn có "vung". Thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến làm cả đấy. Vừa kín đường, vừa lừa được bọn giặc trời". Bắt đầu thấy có xe phía trước đi vào. Lá ngụy trang giắt đầy quanh xe. Xe chở bộ đội, thanh niên xung phong, xe chở đạn, chở hàng. Những chiếc xe đi ngược vào, gặp chiếc Gat 63 của ông Tưởng chỉ khoát tay chào nhanh. Có vẻ họ đã quá quen hoặc chẳng lạ lẫm gì với cái đám sắt vụn biết đi này trên đường. Hàng ngày, biết bao lượt xe lúc vào còn nguyên màu lá, khi quay ra đã có nhiều chiếc rách nát như vậy. Chiến trường là thế, tuyến vận tải Trường Sơn là thế. Cảnh ra vào tấp nập làm cung đường bớt cái vẻ quạnh hiu bom đạn. Và sức sống con đường, cũng góp phần làm ấm lòng người ra trận. Chiếc xe ông Tưởng lái phun khói như một chiếc điếu cày khổng lồ. Thằng Đán ngồi một hồi rồi cũng quen với mùi dầu ma - zut hôi rình. Nghe nó nói câu đầu tiên hơi méo mó :"Anh đi thế này đã nhiều chưa?" Anh Tưởng tròn xoe mắt: "Này, chú mày nói lại được rồi à?"
       - Đêm qua, Anh dí súng ngang đầu Em làm Em tưởng thám báo. Chỉ chờ nó đòm một phát thì nghe được tiếng Anh. Vừa mừng, vừa ngộp không sao nói được câu gì, đành ra hiệu bằng tay với Anh. Đừng giận thằng Em nhé.
       - Giận cái đếch gì?! Nhìn cái bản mặt băng bó thế kia, cứ tưởng chú mày vỡ mất tong cái "Đài phát thanh" rồi. Nhưng mà nói được cũng còn nghe hơi khó đấy. Nói ít thôi, kẻo mệt. Ra đến binh trạm, phải nhờ mấy cậu quân y làm vệ sinh cái mặt cho cậu, kẻo băng bó mãi kiểu này, cái mặt chú mày lại thũng ra mất. Tớ làm "lính xế" Trường Sơn hơn bốn năm rồi, từ cuối sáu tám. Gặp thằng mặt mũi như cậu và cho "thượng" lên xe như thế này mới là một. Lái xe ra vào liên tục. Ấy là trong chiến trường này thôi. Chứ trước tớ là lái xe Quốc doanh vận tải Thanh Hóa đấy. Một mẹ đĩ và ba nhóc rồi còn gì, hai giai một gái. Cứ thau tháu năm một, đứa lớn nay lên chín tuổi rồi. Mẹ thằng cu làm bên cửa hàng chất đốt của huyện Quảng Xương. Mẹ đĩ cùng lũ trẻ sống ngay tại tập thể cửa hàng.
       Gọi là nói chuyện chứ họ gào lên với nhau mới nghe được rõ lời trong sủng xẻng sắt thép và hào hển động cơ. Sẩm tối, chiếc xe dừng lại ở binh trạm Khe Gát, nơi vào ra Trường Sơn của mọi lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tính ra từ lúc xe lăn bánh, đã hơn ba ngày trời trôi qua. Đi liên tục, ngày đi đêm nghỉ, ban ngày chỉ nghỉ hai ba tiếng dọc đường. Lần đầu tiên sau hơn tháng trời lặm lội rừng già, thằng Đán biết đến hột cơm và miếng thịt kho mặn. Lần đầu tiên kể từ khi bước vào trận chiến, nó được tắm táp thỏa thuê mà không lo sợ tên bay đạn lạc, mìn bom chết người. Anh Tưởng còn đích thân đưa gã đến hầm bệnh viện dã chiến để rửa và thay băng vết thương. Tay quân y sĩ tròn mắt nhìn thấy vết thương trên mặt thằng Đán. Đó không phải là vết thương do đạn nổ "Nếu đạn nổ thế này thì thằng cu này chết là cái chắc! Nhưng bảo rằng đó là vết tự thương để biến khỏi chiến trường thì không thể tin được vì nó ngoài sức tưởng tượng". Nghĩ bụng vậy thôi, chứ người y sĩ mặt trận chỉ im lặng cần mẫn, chậm rãi rửa ráy, dùng dao tiểu phẫu trích cắt bớt những chờm lấn dư thừa da thịt vá víu quanh vết thương. Khéo léo khâu nhanh những vệt rách hở chưa kịp liền, làm sạch vết thương rồi băng gạc lại cho thằng Đán với một lớp thuốc mỡ chống bội nhiễm lên vết thương. Trông có thể gớm ghiếc đấy, nhưng nếu được phẫu thuật tái tạo tốt, cũng không khó để có được một khuôn mặt dễ nhìn. Riêng hàm răng, rồi đây cũng phải trồng vào đấy kha khá răng giả, nếu không nói rằng cần phải làm lại toàn bộ hai hàm răng mới hòng tái thẩm mỹ. Khuôn mặt thằng Đán trắng toát băng gạc, chỉ hở đôi mắt và mồm miệng, hai cánh mũi mốc mác. Trông nó khác đến nỗi ông Tưởng suýt xoa khen tay y sĩ: "Này, cậu xứng đáng là thợ dao kéo cao cấp đấy! Hôm mới gặp nó, anh cứ tưởng ma hiện hình đấy". Số thuốc được cấp phát cho thằng Đán có lẽ cũng tương đương với ba cơ số thuốc cá nhân được trang bị khi vào chiến trường. Lủng củng cả thuốc tiêm, sê ranh, ô xy già, cồn y tế, thuốc uống, thuốc bôi. Lại còn cả một gói tướng băng gạc nữa.
....
(Mời xem tiếp kỳ sau)



Không có nhận xét nào: