(Kỳ 23)
(Tiếp theo kỳ trước)
.......
Mà thằng Seo Lừ cũng giỏi thật. Sáng sớm
ra đã thấy nó đeo súng vào sâu trong rừng hái lá thuốc, kiếm cái ăn, có hôm lội
cả suối để bắt cá.
Hôm trước, thằng Lừ còn vác về cả con hoẵng con bẫy bằng
cách đào hố, chăng gài dây rừng. Nó hì hụi làm thịt con hoẵng bằng con dao găm
của Mỹ hẳn hoi, thứ dao chuyên dụng của bọn biệt động quân, lấy được từ xác một
thằng thám báo ngụy. Trông cái cách nó làm, thằng Đán cứ phục lăn. Trong vòng
chưa đầy buổi trưa, nó đã gọn gàng lóc thịt rồi đào nhanh một cái bếp Hoàng Cầm
nhỏ để nướng chín khô toàn bộ số thịt cỡ khoảng hơn chục cân. Giã nát một đám
lá rừng mà thằng Đán không gọi được tên, nó ướp toàn bộ số thịt vào năm chiếc
ống luồng to tướng. Khéo léo kết dây mây rừng làm cữ, nó làm như đan kết năm
chiếc ống với nhau, lại có cả dây đeo. Nó bảo: "Làm thế này để hôm nào bắt
đầu lên đường được, chỉ cần đeo như đeo gùi là đem theo gọn gàng". Mấy bữa
sau ăn thử, miếng thịt hoẵng vừa mềm vừa thơm, vừa đậm đà như được ngâm tẩm đồ
gia vị. Từ trong thực tế chiến trận thằng Lừ nhận biết rất nhanh dấu vết của
những hố, hốc bí mật dọc đường hành quân của các đơn vị đã đi qua. Nó thì thào
kể cho thằng Đán: "Bộ đội mình có rất nhiều tuyến hành quân qua rừng già.
Họ thường bớt lại một số quân lương, thuốc men lấp xuống hố phòng khi lạc rừng
hoặc mất liên lạc với đơn vị. Từ những dấu hiệu đặc biệt truyền lại cho nhau,
rất nhiều đồng đội bị thương hoặc lạc ngũ sau các trận đánh được nuôi sống,
chữa thương bằng những đồ dự trữ đó trong rừng". Chính một trung đội
trưởng kỳ cựu của đơn vị thằng Lừ đã truyền lại kinh nghiệm tìm kiếm đồ ăn,
thuốc chữa bệnh do những đồng đội vô danh để lại trên đường vào hoặc đường ra
chiến tuyến cho nó. Thằng Đán chỉ biết vậy, mỗi khi thằng Lừ lẳng lặng đem về
lúc thì thùng lương khô, lúc thì vài hộp thịt, hộp cá, đựng dầy túi lớn, túi bé
hai chiếc ba lô con cóc của hai đứa. Hai đứa bảo nhau tiết kiệm, tích cóp trước
lấy một ít quân lương. Khi thằng Đán khỏe lại hẳn mới lên đường.
Có dễ phải chục ngày sau, thằng Đán mới
nhúc nhắc đi lại được. Tuy còn yếu, nhưng nhờ thuốc thang, ăn uống chu đáo nên
nó khỏe lại nhiều. Thằng Lừ hướng dẫn thằng Đán cách nhận biết và tìm kiếm lá
thuốc đắp lên vết thương. Gã đã có thể tự mình làm thuốc, băng lại vết thương
bằng hai cặp băng gạc cứng quèo xanh màu lá rừng sau nhiều lần giặt giũ. Trên
người thằng Đán, không có vết thương nào đáng kể ngoài một số nốt bầm tím dần
cũng hồi lại màu da. Cảm giác nhớ lại về tai nạn gã chỉ còn nhớ mang máng. Gã
trôi theo dòng suối chảy siết một lúc thì lần sờ buộc chặt hai dây bên của
chiếc ba lô ngang bụng. Xoay ngược chiếc ba lô trở thành cái phao trước ngực,
gã ôm chặt lấy và để mặc sức nước gầm réo của dòng suối cuốn đi, đầu óc hoảng
loạn chỉ biết cầu ông bà tổ tiên phù hộ không va đập vào các tảng đá dọc đường.
Trôi như thế được một ngày một đêm thì gần sáng, trong cái cảm giác lơ mơ nửa
ngủ nửa thức, nó bỗng thấy đầu mình đập mạnh vào một vật gì rất mạnh. Chiếc mũ
cối đã cứu mạng sống của nó, nhưng ngay lập tức, một cảm giác đau đớn xói thẳng
từ má lên óc. Gã chợt thấy người nhẹ bẫng như bay trong không trung. Trước khi
cảm nhận được cú va đập thứ hai thì đầu óc nó đen đặc lại, không biết gì nữa,
nó đã bị dòng nước hất văng lên bờ cùng một khúc cây tươm nát tua tủa. Nghe
thằng Lừ kể lại, nó gặp gã nằm bất tỉnh bên bờ suối, chiếc ba lô còn nguyên
trên người, nhưng má phải bị một nhánh cành cụt xóc thẳng vào. Khi rút được
cành cụt ra khỏi mặt nó, thằng Lừ kinh hoàng thấy khuôn mặt rách nát, ngâm nước
đã bợt trắng đi của nó. May mà cành cây sau khi phá hàm bên phải, vướng phải
hàm răng còn lại bên trái thì hết lực, không xuyên đi tiếp nữa, mà cũng chẳng
xoay ngang vào hầu, họng, không làm rách lưỡi. Thằng thanh niên mặc nguyên bộ
quân phục rách nát chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã bất chợt lướt qua kẻ bị nạn.
Sơ cứu vội vàng cho nó, thằng Lừ vác nguyên cả thằng Đán cùng chiếc ba lô lên
chiếc hang gần đó, nơi mới chỉ trước đó nửa ngày, thằng Lừ phát hiện ra khi từ
suối tìm cá đi lên. Chiếc hang nhỏ thôi, nhưng cây mọc che cửa hang khá kín
đáo, đủ đứng thẳng người và rộng cỡ gần nửa gian nhà. Lên tới nơi, phải vất vả
lắm thằng Lừ mới moi được hàng răng hàm phải vụn nát trong miệng nó ra, thực
hiện sơ cứu bằng một mũi thuốc kháng sinh và chống nhiễm trùng. Bằng kinh
nghiệm đi rừng, thằng Lừ đã cứu sống thằng Đán bằng cả thuôc tây lẫn lá thuốc
nhai nát đắp lên vết thương. Không nhiễm trùng, tránh được hoại thư, gã như
được sinh ra lần thứ hai. Nghe chuyện người đồng đội không quen biết cứu sống
mình, cánh mũi thằng Đán cay sực lên, nó không biết phải chịu ơn thằng bạn trên
trời rơi xuống này thế nào cho đủ đây. Về
phía thằng Lừ, việc cứu người như cái lý người Mông phải thế. Nó còn vui
lên vì rồi sẽ có bạn đồng hành. Trở nên thân thiết sau cơn hoạn nạn, hai thằng
quấn quýt như anh em suốt ngày. Thằng Lừ ngày nào cũng vào rừng, đem về khi thì
ít củ mài, khi thì rau rừng, cá suối. Thằng Đán ở nhà, vịn thành hang tập đi
cho sớm lại người.
Sáng nay, thằng Đán đã dò dẫm được xuống
suối. Thằng Lừ đi được một lúc thì thằng Đán kéo chiếc ba lô của thằng Thao ra
xem. Đồ đạc trong ba lô còn nguyên, được bọc cẩn thận trong tấm tăng màu xám.
Hai bộ quân trang, một hộp thuốc cá nhân, vài ba đồ dùng lặt vặt. Giữa các lớp
quần áo, thằng Đán tìm thấy một chiếc hộp sắt nhỏ, trước chắc là hộp thuốc tây.
Trong đó, một gói nhỏ bằng vải túi mìn Clây - mo gấp kín sáu tờ bạc "Mười
đồng", tờ bạc mà cánh thợ chiếu bóng gọi lóng là tờ "Cụ mượt"
màu nâu hồng còn khá mới; một cuộn chỉ đen gài một chiếc kim khâu…chắc là vật
kỉ niệm từ một bạn gái cùng học nào đó giúi cho trước lúc lên đường nhập ngũ.
Chiếc lọ Penixilin chứa một miếng giấy bạc bao thuốc lá Thăng Long. Mở ra,
thằng Đán đọc thấy mấy hàng chữ nắn nót rất đẹp: Chu Quang Thao, sinh ngày 14
tháng sáu năm 1948. Địa chỉ: đội Bốn làng Chàng Sơn, Thôn Phú Hòa (Làng Ra) xã
Bình Phú, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Tên bố: Chu Văn Sơn, 56 tuổi. Tên mẹ:
Phan Thị Ràng, 52 tuổi.
Tay nắm chặt chiếc lọ thủy tinh trong
túi, thằng Đán bước xuống suối, vung tay đập nát chiếc lọ vào tảng đá nhô ra
bên bờ. Chiếc lọ vỡ vụn, mảnh rơi lõm tõm xuống nước, cuộn giấy bạc văng xuống
dòng suối chảy siết mất hút. Trong lòng, gã thầm khấn thằng Thao phù hộ cho
chuyến đi trước mắt của mình. Giữa không trung đầy ắp tiếng nước chảy rì rào,
nó như thấy thằng Thao đứng đó, cao lớn, im lặng. Chợt gã bỗng thấy tiếc đã đập
vỡ chiếc lọ, giá cứ để dành đấy để gài mảnh giấy nhân thân mình vào, lỡ có làm
sao…Nó lắc đầu dứt khoát không muốn nghĩ tiếp nữa, gì thì việc cũng đã rồi… Vội
quay người, nó đi gắng thật nhanh về hang, đầu óc trống rỗng.
Tối hôm đó, trong lúc chuẩn bị đồ đoàn để
lên đường sớm mai, dưới ánh sáng leo lét từ ngọn lửa đốt bằng hạt dầu gai thằng
Lừ khoe thằng Đán chiếc dây đeo có chiếc nanh cọp nạm bạc, sau lớp ngực áo quân
phục: "Này Đán! Tao với mày từ bây giờ sẽ sống chết có nhau như anh em một
nhà. Chiếc nanh cọp này là vật thiêng giữ mạng của chúng minh." Miệng nói,
tay làm, nó lấy mũi chiếc dao Mỹ khắc lên mặt sau chiếc nanh hai chữ cái
"Đ" và "L" bé xíu đứng cạnh nhau. Thằng Đán nín lặng cảm
động, thật không ngờ nó lại được ông trời mang tới một người bạn đồng ngũ quý
hóa như thế trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm chết người như thế này.
Quá
nửa đêm, khi thằng Lừ ngon giấc ngủ lịm thằng Đán mày mò lần sờ chúi vào góc xa
nền hang. Khẽ khàng lột bỏ chiếc quần lót đang mặc, dưới ngọn đèn nhập nhoạng
đốt lên bằng đĩa dầu nhựa cây thằng Lừ chế tác dùng thắp sáng hàng đêm trong
hang, gã vụng về khâu chặt gói vải mìn Claymo chứa "kho" bạc "Cụ
mượt" lấy được vào đũng quần bằng cuộn kim chỉ sẵn đó. Xong xuôi đâu đó,
nó mới trở lại chiếc ổ lá rừng rải bên thằng Lừ ngủ lại…
*
* *
....
(Mời xem tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét