(Tiếp theo kỳ trước)
……..
Mấy tháng sau đó, với một khoen vàng mỏng tang được mẹ giúi cho khi lên xe về nhà chồng, con Xoan nhờ ông bố chồng xin được một suất phiếu phân phối mua chiếc máy may Trung Quốc hiệu "cánh bướm" và cất được gian lều nhỏ góc chợ làng, cùng chồng nhận vá may áo quần. Anh cu Đán suốt ngày quanh quẩn cạnh vợ, cũng để móng tay ngón cái dài ra như đám thợ may trên phố huyện, chịu làm người học nghề của vợ gã, vừa phụ việc, vừa trông hàng. Cuộc sống cứ vậy chầm chậm trôi. Thi thoảng, ông bố chồng đạp xe từ trên phố huyện về làng, đằng sau cái đèo hàng chất ngất ngư giấy bìa. Thằng Đán lại lúi húi miệt mài ở nhà, để quán xá cho con cái Xoan một mình xoay trở. Khi thì bồi cả đống bìa lịch treo tường, khi thì tay bút tay khuôn bôi mấy cái hình cuốn thư, tranh phong cảnh nhăng nhít mà người phố huyện bắt chước trên tỉnh gọi nhại là “tranh bờ hồ”, mà chẳng cần biết đó là bờ hồ gì. Thời đó muốn làm mấy cái đồ ấy phải có cơ quan nhà nước dành việc cho. Bột màu, giấy bìa đâu có bày bán tự do ngoài chợ. Tất tật đều chỉ có trong mấy cơ quan ngành văn hóa mới có, đâu được gọi là “vật tư chuyên dùng”. Vài cái bút chổi đót, chổi sơn, thậm chí tết vội bằng mấy sợi rơm chổi lúa sơ sài, mấy nắm giẻ rách buộc túm lại làm tay dập, cứ khuấy bột màu với ít hồ bột là được vài bát màu đủ nuốt trôi đám tranh, đám bìa lịch ấy. Xong việc, ông bố lại kỳ cạch cuộn, gói đem đi. Cái cửa hàng sách của huyện nơi ông phụ trách sẽ tiêu thụ chỗ “đồ hàng mã” ấy. Đồng ra đồng vào, vợ chồng con cái Xoan cùng bà mẹ cũng đắp đổi không đến nỗi tồi cho nóc nhà dăm bảy miệng ăn, tiền học hành của lũ trẻ, tiền tiêu pha hàng tháng.
Nhưng rồi, trận đòn chồng đầu tiên đến với con Xoan cũng thật bất ngờ. Bữa đó, qua Tết dễ đến sau rằm tháng Giêng, vào một buổi trời chạng vạng chiều, mưa phùn lất phất thì con cái Xoan có khách bên nhà ghé qua. Thằng Đán hôm đó không ở ngoài quán. Nó theo mấy cậu trai làng đi quét vôi, kẻ khẩu hiệu cổ động thu nộp thóc nghĩa vụ cho văn hóa xã tận ngoài khu sân kho hợp tác gần Đống Cờ. Khách là bà cô họ của con Xoan. Tiếng là bà cô, nhưng đó là gọi theo thứ bậc họ mạc, chứ cô cháu chỉ chênh nhau vài ba tuổi. Sau một hồi vồn vã thăm hỏi chuyện ăn làm, sức khỏe người thân. Chợt bà cô ghé tai con Xoan nói nhỏ: “Chuyện chồng con mày ở nhà nhiều tiếng xầm xì lạ lắm. Có cái nhà anh Khích từ chiến trường được ra ngoài này nghỉ dưỡng đâu như ở mãi tận Tràng, Chũ về thăm nhà cứ khăng khăng rằng mày lấy phải thằng chồng đào ngũ, bỏ ngũ gì đấy chứ không phải thương binh thương bò gì đâu. Hồi vào chiến trường, chồng mày và anh ta đi cùng một đợt. Bặt nhau hơn năm giời, khi bị thương về nằm trạm xá ngoài bắc, có người cùng huyện mình nói chuyện lại với nhà anh ấy như vậy. Ngày xưa, đâu như thằng chồng mày cũng đi công nhân, có việc làm tận trên tỉnh cơ đấy. Người ta gọi nó nhập ngũ từ trên cơ quan, sao khi rời bộ đội lại về nằm nhà là cái lý gì! Bố mẹ mày hơn tháng nay âu sầu ủ rũ chẳng dám ló mặt đi đâu. Liệu mà về thăm ông bà ấy.” Con Xoan ngẩn người rồi lắp bắp: “Cháu cũng chẳng biết được việc gì. Trong nhà thì chẳng được một ai nói cho đã đành, mà người làng có thấy ai nói qua nói lại gì đâu.” Cô nó dài môi: “Ai người ta nói cho mày hay, quân ngoại tộc, ngoại xã, khác máu tanh lòng. Bố chồng mày đang còn công tác trên huyện sờ sờ đấy, lại có vây có cánh, ai người ta dại gì mà vọc miệng vào. Mày nghĩ xem thử, thời bom rơi đạn nổ thế này, trai tráng đi ra mặt trận cả, được thằng nào về biết thằng ấy. Con người ta về được nhà, có thương có tật vậy, ai dám đụng đến. Thương binh thật thì thời này là vua nghe chưa. Đố có ai dám hạch sách gì. Tao nói sao biết vậy thôi, chuyện đồn đãi nghe đâu biết đấy kẻo khổ thân.” Bà cô nhìn con cái Xoan nước mắt ngắn nước mắt dài an ủi vậy rồi quầy quả ra về sợ trời tối ập xuống lúc nào chẳng hay. Con Xoan líu ríu tiễn bà cô họ, rồi thần người ngồi rũ ra bên bàn may. Bất chợt, nó lén nhìn xuống bụng, thở dài. Kỳ rồi không thấy có máu tháng. Ở quê nó, từ cái đận nghe thấy tiếng kẻng báo động máy bay lần đầu tiên hồi dăm bảy năm về trước đến giờ, nhiều đợt thanh niên lên đường ra trận lắm rồi. Thảng hoặc, vài ba trai làng trở về, song cũng không mấy người lành lặn. Họ là thương bệnh binh, được bà con chòm xóm kính nể, chính quyền chăm lo ưu ái, và thành gương sáng cho lớp trẻ noi theo. Còn cái đám đảo ngũ, “B quay” cũng có đấy, song người làng coi chúng như lũ chết rồi. Chỉ có không biết xử thế nào thôi, chứ không nhẽ lót lá dắt tay đuổi cổ chúng ra khỏi làng sao! “Xanh cỏ, đỏ ngực” vốn là cái danh dự, là lời thề của người trẻ lúc đó. Kẻ quay về không chính danh thường bị coi là làm nhục ông bà tổ tiên, làm nhơ nhuốc quê hương làng xóm. Chúng sống ru rú góc nhà, có ra đường cái mặt cũng đổ gục xuống, chẳng dám nhìn ai. Gia đình nào có con cái mắc tội ấy, người trong nhà khổ tâm lắm lắm. Lúc nào cũng len lén, câm nín và nếu có dịp tụ họp nào trong làng, trong họ cấm có dám chường cái mặt ra giữa chốn đông người. Họ tủi hổ, lủi thủi giữa ba bề bốn bên người làng, chịu cái nhìn hắt hủi, ghẻ lạnh như kẻ mắc bệnh hủi. Đi không được, ở chẳng nên, đối với làng xóm kẻ trốn chạy cuộc chiến cứ như cái dằm lim dưới gót chân không làm sao nhể ra được. Đêm tân hôn ngày nào lại lờ mờ hiện ra trong tâm trí nó. Trong đêm đó, cái mặt méo mó, mồm miệng sều rãi rớt của thằng chồng và cái lối làm tình như nuốt sống nó cho đến giờ vẫn còn làm con Xoan rùng mình. Dù nhìn mãi cái mặt ấy rồi cũng quen, nhưng sau lần ấy, con cái Xoan cứ đêm nào phải nằm dưới thằng chồng là mắt mũi nhắm nghiền, mặt ngoảnh đi chỗ khác, trân người chịu đựng cho xong cái phận làm vợ, mặc thằng đàn ông làm cho hết cái việc của con đực rồi lăn kềnh xuống ngáy rền. Hàng đêm như vậy rồi, có lần nào vợ chồng chuyện trò gì với nhau đâu. Chợt nhớ hôm nay là thứ bảy cuối tháng, con Xoan lầm lũi dọn quán. Một bên quang gánh để hàng, vải vóc cắt may, một bên chiếc đầu máy khâu tháo rời khỏi bàn theo nó về nhà. Cái quán, chân bàn máy, chiếc bàn cắt đã có nhà chú Dựa, bảo vệ kiêm thu vé chợ lấy làm chỗ nghỉ đêm trông coi. Ở phố núi này, mấy dãy lều chợ ngày nào cũng họp, sáng thì từ tờ mờ, nắng lên vừa nghiêng bóng thì rã đám, chiều thì phải quá buổi mới họp tới xẩm tối. Để tránh máy bay đánh vào giờ cao điểm mà.
Về đến đầu sân, thấy chiếc xe đạp "Thống nhất" của bố chồng dựng bên thềm, con Xoan bụng bảo dạ đêm nay nhỏ nhẻ hỏi chồng xem thế nào. Bụng thấy vợi được chút nỗi buồn hồi chiều gặp bà cô để lại. Bữa đó, bố chồng nó lại đem về cả đống giấy bìa, vài bọc giấy xi măng đùm mấy loại bột màu. Song trông ông kém vui, mặt mũi buồn buồn, hai mắt trũng sâu, túi mắt như xệ xuống hơn mọi bận. Bà mẹ chồng thì thầm với con Xoan “Dạo này trên cơ quan thày mày có chuyện hay sao ấy, tao thấy đận này thày mày khác lắm.” Cơm nước xong, ông lại ôm cái đài vào giường nằm sớm, chẳng buồn trò chuyện gì. Thằng Đán bữa đó, kẻ xong nửa cái khẩu hiệu trên bờ tường nhà kho hợp tác, phởn chí cùng mấy thằng bạn làm cút rượu, bát lạc rang trong quán nhà bà Tỏ dưới gốc đa đầu giếng. Xong bữa tối, vừa lên giường thằng đàn ông đã vật ngửa con vợ ra, dận huỳnh huỵch chẳng kể việc thày nó đang nằm chái đầu hồi bên kia, chẳng hiểu đã ngủ hay còn thức nghe đài có nghe thấy gì hay không. Con Xoan lần này nghe có vẻ mềm người hơn mọi bận, để thằng chồng xong việc thì thào: “Tôi có chuyện muốn nói với nhà đây”. Thằng chồng đã nằm quay lưng lại với vợ, ậm ừ: “Hôm nay mày dở tính làm sao thế, sao không nói lúc nãy. Mà thôi, nói cái gì thì nói mau đi, tao buồn ngủ lắm rồi đấy!”. Nghe cái giọng cục cằn của thằng chồng, con Xoan định nói việc có mang trước lại thôi. Cứ hỏi chuyện kia đã. “Thế nhà nó đi chiến trường thương tật thế nào mà không được xét thương binh, bệnh binh gì sất? Kể mà được là có khối tiêu chuẩn đấy”. Nhoáng cái, chưa kịp hiểu đầu đuôi ất giáp gì, con Xoan đã thấy bàn tay nhớp nhúa mồ hôi của thằng chồng bịt chặt mồm miệng mình, bên tai có tiếng rít khẽ: “Tổ cha con đượi, ai dạy mày nói vậy. Bố truyền đời cho mày biết, mày nói thêm lần nữa những chuyện thế này, ông bóp chết.” Mới nghe có vậy, con Xoan đã cong người bởi một cùi chỏ đánh thẳng vào mỏ ác, rồi cả một cơn mưa những đấm những đạp, những cấu véo vào ngực, bụng, cả bụng dưới, cả đùi ngoài đùi trong, cả giữa háng đến mụ cả người. Mồm bị bịt chặt nên nó chỉ ú ớ được vài tiếng rồi vừa sợ vừa đau quá, nó ngất xỉu đi. Chỉ đến khi thấy con vợ nhũn như dẻ khoai dưới đầu gối mình, thằng chồng mới hốt hoảng ngừng tay, nằm vật xuống giường thở hồng hộc. Đến gần sáng, khi cái lạnh từ chân đồi sau lưng nhà thấm vào, con Xoan mới tỉnh lại. Giữa cái lạnh lẽo dở đêm dở sáng, nghe phía chái bên kia nhà, tiếng bố chồng nó lụ hụ ho khan, giở mình nặng nề. Thi thoảng, xen vào tiếng thở dài cố nhịn của bà mẹ chồng chứng tỏ họ có biết trận đòn trong đêm con cái Xoan vừa hứng chịu. Vào lúc gà gáy sáng, trời còn chưa rõ mặt người, ông bố chồng đã dắt xe đạp lên huyện. Sau lúc ông đi, người nhà để ý thấy bát hương trên bàn thờ, có thêm nén hương ông cắm còn ngun ngún khói. Trận đòn đau làm con vợ thằng Đán bỏ buổi chợ, nằm bệt. Giữa buổi, con Xoan hốt hoảng thấy bụng dưới rút quặn lên, chút máu đen rỉ ra giữa háng. Bà mẹ chồng hốt hoảng gọi người võng ra trạm xá xã, con Xoan thế là không giữ nổi cái thai đầu. Thằng chồng nó, mặt xạm đen lại, cả ngày ngồi thu lu góc hè chẳng nói chẳng rằng. Sáng sớm ngày hôm sau, khi con Xoan và bà mẹ chồng còn đang trên trạm xá xã, thằng Đán lặng lẽ ra khỏi nhà rồi chiều tối và cả vài ngày sau không thấy nó quay về. Dễ đến vài tháng sau, mới thấy người làng nhắn về là có thấy thằng Đán đang đập đá trên xí nghiệp đá cuối huyện. Trận đòn đêm từ đó, không chỉ có vậy mà thường xảy ra mỗi khi thằng chồng say máu, đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hồn cho con Xoan, mãi đến tận sau này.
*
* *