TUỔI NGOÀI 60 KỂ NHƯ ĐÃ BƯỚC VÀO MÙA THU CỦA CUỘC ĐỜI MỖI CON NGƯỜI. NGƯỜI LẠC QUAN COI GIAI ĐOẠN NÀY LÀ "MÙA THU VÀNG" CỦA ĐỜI MÌNH. NGƯỜI KHÁC VỚI NỖI LO TUỔI TÁC VÀ BỆNH TẬT COI ĐÂY LÀ MỘT GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN. LÀ NGƯỜI LẠC QUAN TÔI COI TUỔI NÀY LÀ TUỔI ĐỦ ĐỘ CHÍN CỦA NĂNG LỰC SÁNG TẠO, CỦA TỪNG TRẢI CUỘC ĐỜI. ĐIỀU ĐÓ KHIẾN TÔI MONG MUỐN HƯỚNG TỚI SỰ CỞI MỞ. ĐÓ LÀ LÝ DO NGƯỜI VIẾT BLOG NÀY TỰ GỌI NHỮNG TÂM SỰ CỦA CÁ NHÂN MÌNH LÀ "TỰ KHÚC THU"
Vào những ngày cuối tháng 11, một
chuyến du khảo Hà Giang đặc biệt hữu ích được tự nguyện tổ chức bởi một nhóm
nhà giáo lão thành thuộc Hội cựu giáo chức và một số hội viên Hội nghiên cứu lịch
sử, một số văn nghệ sĩ tỉnh Hải Dương. Đoàn do NGUT Hoàng Văn Nguyện và ông Tăng
Bá Hoành- Chủ tịch Hội Sử học tỉnh dẫn đầu.
Những mục tiêu hướng đến cho chuyến đi là Cao nguyên đá Đồng Văn, Nhà cổ vua
Mèo Họ Vương (Vương Chính Đức), cột cờ Lũng Cú trên địa đầu Tổ quốc...
Điều
đặc biệt của chuyến đi chính là độ tuổi của các thành viên trong đoàn. Người
cao tuổi nhất đã 83 tuổi. Đa số thành viên còn lại trong đoàn có độ tuổi từ 65
đến ngoài 75 tuổi. Đủ thấy, nỗi ước mong được một lần đặt chân đến những danh
tích nơi địa đầu Tổ quốc của các bác, các cụ thôi thúc bước chân "tuổi cao
chí càng cao" mãnh liệt đến thế nào?
Phụ nữ Việt Nam
sinh ra từ một đất nước có bề dày lịch sử hào hùng, phong hóa sinh động và đầy
tự hào. Chính họ ngoài thiên chức làm Vợ, làm Mẹ còn tự mình làm nên hình ảnh “Phụ
nữ Việt Nam Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”. Cũng chính họ đã sinh ra
cho dân tộc những vị anh hùng, những nhà chính trị, khoa học và văn hóa lỗi lạc.
Lại cũng chính họ đã làm nên khuôn dạng đất nước hình chữ S bên bờ biển Đông nổi
danh anh hùng. Và rồi, tiếp nối nhau hết thế hệ này đến thế hệ khác họ còn khắc
họa nên nhiều vẻ đẹp, nhiều kỳ tích mới. Trong lòng dân tộc, MỸ DANH “MẸ VIỆT
NAM ANH HÙNG” sẽ còn được ghi danh mãi mãi trong suốt chiều dài lịch sử. Tác giả bài viết dành tặng những hình ảnh đẹp dưới đây cho
các Bà, các Chị, các Em, các cháu nhân ngày lễ đẹp đẽ và ý nghĩa này.
12 giờ hôm nay,
ngày 11 tháng 10. Đất nước, dân tộc Việt Nam xót đau bước vào những giờ phút Quốc
tang trang trọng tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong tâm khảm mỗi người
dân Việt Nam, Người là hình tượng vĩ đại của thời đại Hồ Chí Minh. Dòng người đến
viếng tại tư gia Đại tướng đã thể hiện niềm tiếc thương của hàng triệu
trái tim Việt và bạn bè thế giới. Truyền thông đưa tin …”Ngay sau khi ngôi nhà 30 Hoàng Diệu đón những người dân cuối cùng vào
viếng Đại tướng và đóng cửa lúc 9h30 tối 10/10, ở phía ngoài, 103 ngọn nến đã
được thắp lên.Lễ
tưởng niệm nhỏ đã được người dân tự tổ chức với một phút mặc niệm bày tỏ tình
cảm đối với vị tướng huyền thoại. Những người dân cuối cùng vào viếng Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã hô vang tên ông 3 lần, sau đó hát Quốc ca.”
...."Thực hiện
chủ trương của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về kiểm kê, lập hồ sơ trình
Chính phủ công nhận Nghi lễ Chầu văn của người Việt là di sản Văn hoá phi vật
thể quốc gia và trình tổ chức UNESCO Thế giới công nhận Nghi lễ Chầu văn là di
sản văn hoá phi vật thể của nhân loại; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nội
đã ban hành kế hoạch triển khai số 2356 KH/SVHTTDL- QVH ngày 31/07/2013 để tổ
chức Liên hoan Nghi lễ Chầu văn Hà Nội lần thứ nhất năm 2013." (Trúc Diệp- Báo
Dân trí điện tử. Thứ Ba,
24/09/2013)
Trong sâu thẳm của
ký ức cộng đồng, lễ hội luôn chiếm vị trí hết sức sâu đậm. Gắn với các lễ nghi
tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội dân gian như nguồn nước tươi mát tắm tưới cho khát
vọng cộng đồng thể hiện ước mơ thống đoạt số phận, thâu tóm quyền lực siêu
nhiên của cư dân mọi nền văn hóa. Có vẻ, trong những màn diễn xướng dân gian
hoành tráng cuốn hút cả trăm, cả ngàn vạn
con người ấy sức lan tỏa không chỉ riêng đối với từng cá nhân mà luôn là sự cố
kết cộng đồng bền chặt những lễ nghi, tập tục
và cả niềm hoan ca giải thoát. Những nguồn lực lớn lao ấy lại xuất phát
từ thôi thúc mùa vụ, mang theo hơi thở, sắc thái sinh sôi nảy nở và tích tụ
năng lượng tự nhiên khiến màu sắc lễ hội luôn tràn ngập sự thăng hoa, lung linh
huyền ảo niềm tin tâm linh tín ngưỡng. Trong không gian dân dã mà sang trọng,
con người – chủ nhân đồng thời là tác giả thật sự của ngọn nguồn lễ hội bộc lộ
chân thật mọi cảm súc đời thường. Chẳng thế, dân gian có câu “Xuân Thu nhị kỳ”
để đánh dấu hai mùa lễ hội thường niên. Tâm thế, cảm xúc hội hè tràn ngập nhà
nhà, người người. Vùng quê thường khi tĩnh tại vào mùa lễ hội sôi động và cuốn
hút khó cưỡng.
Cách nay hơn một
năm, trên những trang viết trên Blog này tôi đã “khoe” về một tập thể có chung
một nỗi đam mê: “đam mê ca hát”. Mà không phải của người trẻ; người trẻ nói đến
hát xướng có vẻ là thừa, vì đó vốn là bản tính của lứa tuổi khi cuộc đời đang hồ
hởi nếm trải niềm vui sống, khát khao hạnh phúc, yêu thương và chia sẻ. Điều
tôi nói đến khi đó là niềm đam mê ca hát
của người có tuổi. Trong tập thể với một số ít người ngót ngét…bảy mươi ấy, đa
số đã ngoài lục tuần, số còn lại được cho là “trẻ” cũng hơn năm mươi cả rồi. Họ
tự nguyện tập hợp nhau lại, trên nền tảng một tổ chức từng có từ thời chống Mỹ
cứu nước: “Đội văn nghệ xung kích thành phố Hải Dương”. Đã có ý tưởng làm mới bằng
cách tự gọi mình là đội văn nghệ “Tiếng hát mãi xanh” hoặc “Nhóm nhạc Thời
gian”…Rồi ký ức tuổi trẻ lại thuyết phục họ lấy lại tên “Đội văn nghệ xung
kích” dù biết rằng, môi trường để tồn tại cái tên này…khó có thể quay lại được.
Dù sao, cái tên cũng không quan trọng bằng sự tập hợp có tổ chức, có sinh hoạt
định kỳ và có “mục tiêu hát” cụ thể. Hát để thỏa mãn niềm đam mê, hát để biết rằng
mình “còn trẻ, còn khỏe”; hát cho nhau nghe, hát với bạn bè và còn “hát cho đồng
bào tôi”…nghe được.
Bách khoa toàn thư mở tiếng Việt Wikipedia
trên Internet viết về Thày Chu Văn An thế này:
….”Chu Văn An(chữ Hán: 朱文安;1292–1370), tên thật làChu An, hiệu làTiều Ẩn(樵隱), tên chữ làLinh
Triệt(靈澤), là mộtnhà giáo,thầy thuốc, đại quannhà Trầntronglịch
sử Việt Nam, được phong tướcVăn
Trinh Côngnên đời sau quen gọi
là Chu Văn An.
Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh
Đàm (nay thuộc xóm Văn, xãThanh Liệt, huyệnThanh Trì, Hà Nội.
Là ngườichính trực, đã từng đỗThái học sinhnhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng
Huỳnh Cung, bên kiasông Tô Lịch,
ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đứcKhổng giáovàoViệt Nam. VuaTrần Minh Tông(1300–1357) vời ông ra làm tư nghiệpQuốc tử giám,
dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vuaTrần Hiến Tôngtương lai. Đến đờiDụ Tông,
ông thấy quyền thần làm nhiềuđiều vô đạo, ông dângThất trảm sớxin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông
chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh,Hải Dương),
lấy hiệu làTiều ẩn(người đi ẩn hái củi), dạy học, viết
sách cho tới khi mất.
Tọa lạc trên đỉnh Phượng Hoàng gồm 5 kệ thờ
được dựng bằng đá nằm trên 5 đỉnh núi, có rừng thông bao phủ cảnh rất hữu tình.
Từ nơi đặt bàn thờ chính khách vãn cảnh có thể thả mình trong mây nước ngắm phong
cảnh mênh mông bát ngát xung quanh, có thể nhìn thẳng về sông Cầu, sông Thương
và cả vùng núi trùng điệp phương Bắc.
Núi
Ngũ Nhạc nằm về phía Đông Bắc của Côn Sơn, có 5 đỉnh. Trên các đỉnh núi này
người xưa cho xây 5 miếu thờ sơn thần nên gọi là “Ngũ Nhạc linh từ”. Chính vì
cách gọi tên “Ngũ Nhạc linh từ” nên nhiều người nhầm hiểu Từ là Đền. thực ra ở
Ngũ Nhạc chỉ có miếu. Miếu có quy mô nhỏ dài 3m rộng 2m, cao khoảng trên 1m.
Kiến trúc giống như một cái lăng, không có mái, trên miếu chỉ có một lư hương
thờ trung thiên. Cách gọi “Ngũ Nhạc linh từ” chỉ là một cách gọi theo kiểu từ
ghép Đền Miếu như một vế của câu đối ở đền Kiếp Bạc: “Từ miếu hinh hương cơ tứ
hải”.
Xét về
ngữ nghĩa của chữ Nhạc có nghĩa là: Năm núi Nhạc, còn chữ Nhạc có nghĩa là núi
thiêng.
Đạo
giáo ở Trung Quốc chẳng những phong danh hiệu cho Ngũ Nhạc mà còn phân chia
chức năng cho từng quả núi.
- Đông
Nhạc - Thái Sơn: Tiêu biểu cho sự tôn nghiêm của Ngũ Nhạc và quản việc cát
hung, hoạ phúc của nhân gian.
- Nam
Nhạc - Hoành Sơn: Thống đốc các loài thuỷ tộc.
- Tây Nhạc
- Hoa Sơn: Quản Ngũ kim và họ nhà chim.
- Bắc Nhạc
– Hằng Sơn: Chủ quản sông, biển, ao, hồ, các loài thú, rắn, rết, côn trùng.
- Trung
Nhạc – Tùng Sơn: Chủ quản cây cối, núi rừng, khe vực.
Do
ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, ở Côn Sơn, nguời xưa đã xây dựng 5 miếu
thờ trên cùng một dãy núi, vì thế mà có tên Ngũ Nhạc linh từ. 5 miếu trên Ngũ
Nhạc có thể được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIII – XIV – là thời kì phát triển
của đạo giáo Việt Nam. Vào thời Trần có đạo sĩ Huyền Vân luyện đan ở núi Phượng
Hoàng nên vua Trần đặt tên là động Huyền Thiên. Ở Côn Sơn có động Thanh Hư và
Ngũ Nhạc có 5 miếu thờ Sơn thần mang đậm chất của đạo Giáo.
Trên
5 đỉnh núi có 5 miếu thờ 5 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung phương. Căn cứ
vào tên gọi lư hương bằng đá ở miếu cao nhất “Đông lư miếu” 5 miếu này lần lượt
có tên:
Đông phương
miếu: Tượng trưng cho hành mộc – màu xanh.
Tây phương miếu: Tượng trưng cho
hành kim – màu trắng.
Nam phuơng miếu: Tượng trưng cho
hành hoả - màu đỏ.
Bắc phương miếu: Tượng trưng cho
hành thuỷ – màu đen.
Trung phương miếu: Tượng trưng cho
hành thổ – màu vàng.
5
miếu mang những chức năng quản việc cát, hung, hoạ, phúc, thống lĩnh muôn loài
và chủ quản cây cối, núi rừng, khe vực. Vì thế mới lý giải được vì sao đường
cao, dốc dài, dây gai chắn lối mà các tín đồ phật tử vẫn hành hương lên Ngũ
Nhạc linh từ để cầu phúc, tránh hoạ, mong cho mùa màng phong đăng hoà cốc, quốc
thái, dân an.
Sau
khi được trùng tu, Ngũ nhạc linh từ được khánh thành vào ngày 13/2/2006, tức 16
tháng Giêng âm lịch, đúng vào dịp khai mạc lễ hội mùa xuân Côn Sơn Kiếp Bạc.
Tháng
tám âm lịch tới đây, lễ hội mùa thu Côn Sơn Kiếp Bạc lại mở. Khách thập phương
về dự khai hội hãy dành thời gian lên đỉnh Ngũ nhạc để vãn cảnh núi non mây
trời kỳ vỹ này. Ngũ Nhạc Linh Từ không chỉ là địa chỉ thiêng cho du lịch văn
hóa tâm linh mà nay còn được nhiều hội viên khí công dưỡng sinh chọn làm nơi
tiếp thụ khí thiêng trong luyện công, dưỡng khí. Dưới đây là video hình ảnh ghi
lại sau một chuyến hành hương.
Chiều hôm đó, gần năm giờ lễ tân nhà
khách báo Anh Bảy đợi tôi dưới sảnh. Tôi vội xuống, lên xe. Dọc đường, tôi dè
dặt nói với Anh Bảy về tâm trạng lúng túng khi dự một cuộc tiếp cơm như thế
này. Anh Bảy cười lớn, giọng thân tình: "Thằng Ba này sao mà nhát vậy!
Chuyện cũng thường thôi, cha Văn Công hễ nói đến sách báo, thơ văn là vui nổ
trời. Nhân có chuyện chú Em vào, Ổng muốn gặp gỡ bạn văn, thơ. Lâu lâu, tụi
mình lại ngồi nhậu với nhau một bữa thế này. Lát nữa chú em biết ngay thôi. À
mà Anh nói chú biết nhé. Hồi trên cứ, thằng Bảy này là ông Mai của vợ chồng Văn
Công đó. Bữa làm lễ, tao vừa làm Mai vừa làm chủ hôn, lại vừa thay mặt cả hai
gia đình đó!" Thảo nào? - tôi nghĩ bụng khi nghĩ đến lối nói Anh Văn Công
dùng bữa trước "Tôi được Anh Bảy phôn cho..." một cách thân mật. Xe
đưa chúng tôi đến phố Phan Chu Trinh, rồi giảm tốc độ rẽ vào một khu khách sạn
bề thế. Tôi đọc tấm biển trên cột cổng " Khách sạn giao tế Thắng Lợi-
Hotel relattion Thang Loi ". Bên dưới dòng tiếng Anh còn một dòng tiếng
Nga nữa. Chúng tôi được tiếp viên khách sạn đưa đến một phòng ăn nhỏ, trong đó
chỉ có dăm bảy người. Anh Văn Công chào lớn: "Anh Bảy tới rồi, ngồi đi,
ngồi đi!" Anh Bảy xếp tôi ngồi cạnh Anh. Anh lần lượt giới thiệu thực
khách để tôi chào hỏi. Người ngồi cạnh tôi, có dáng người nhỏ nhắn, trán cao
hơi hói và đôi mắt tinh nhanh sau cặp kính là...nhà thơ Giang Nam, Chủ tịch Hội
VHNT tỉnh. Tôi ngẩn người, tròn mắt. Anh Giang Nam cười lớn: "Lạ lắm hả,
biết bài thơ nào của tui không?" Tác giả của bài thơ "Quê hương"
nổi tiếng là vậy đó, quảng giao và vui vẻ. Tôi đứng dậy chào Anh, Anh Văn Công
cười: "Cứ ngồi, cứ ngồi. Bất ngờ hả?". Rồi lần lượt các Anh: Bằng Tín
- Phó Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, Anh Đỗ Như Phước- Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Xô
tỉnh Phú Khánh, Anh Đặng Ngọc Thiết - Phó Chánh văn phòng UBND tỉnh, Nhà văn
Nguyên Hồ, nhà thơ Đào Xuân Quý.....và một vài khuôn mặt khác không nhớ hết tên.
Bữa ăn không thật thịnh soạn và cấp "nhà nước" như tôi nghĩ. Đơn
giản, nhẹ nhàng song đầm ấm và rất vui. Các Anh thay nhau đọc thơ, đàm luận đôi
lúc còn "dọn vườn" thơ của nhau khiến bàn tiệc lúc lúc lại rộn lên.
Tôi thú thật với Anh Giang Nam rằng mình chỉ biết "giữ sách" chứ văn
chương không rành, Anh nói vui: "Thế thì cậu cứ nghe, khi nào thấy chán
thì bảo mình. Mà nếu nghe không vào thì "chiêu" mấy ngụm bia cho
đã!" Anh Bảy cũng động viên tôi: "Đây là "tiệc thơ", ai có
thơ cứ đọc, ai không thích uống thơ thì...uống bia". Tôi thấy thoải mái
dần, khi nhỏ nhẹ chuyện với người này, khi nhỏ nhẹ với người khác. Bỗng Anh Văn
Công gọi: "Thiêm nè, mình có việc muốn nhờ cậu đó". Tôi hướng về phía
Anh, lắng nghe. "Hồi trên cứ, mình viết được khá nhiều thơ. Thơ được đăng
trên báo Liên khu Năm có, thơ được Văn nghệ miền in, được Nhà xuất bản Giải
phóng in cũng có. Thế nhưng hồi đó, có thơ đăng, thơ in nhưng có được biếu sách
mấy đâu. Nhưng mình biết, các thư viện miền Bắc thế nào cũng có. Nhân đây, nếu
có thể giúp được, Ông tìm giúp lại cho mình vài tập. Cứ gửi qua đường Bưu điện
là mình nhận được". Anh Giang Nam cũng góp thêm: "Việc đó mấy vị
"giữ đền" này làm được đấy. Thiêm, Em hứa cái rụp đi cho Ảnh yên
lòng!" Chưa biết sẽ tìm và bằng cách gì để có mấy tập thơ đó, nhưng tôi
cũng thưa: "Em sẽ gắng, có được Em xin gửi vào cho Anh". Nói vậy
nhưng bụng cũng ...lo. Cuộc vui kéo mãi đến hơn tám giờ tối, để lại một không
khí quần tụ, ấm cúng và hết sức thân thiết trong tôi. Chia tay với các Anh, tôi
cũng nói lời chào tạm biệt và hứa nếu có dịp trở lại xin được đến thăm các Anh.
Anh Văn Công nắm tay tôi thật chặt, nói thêm: "Tìm được hay không tìm được
mấy cuốn sách cho mình không quan trọng, đừng vì thế mà mất quá nhiều công. Biết
có sách ngoài đó là được rồi. Đi đường khoẻ mạnh nghen, cho gửi lời thăm mấy
Anh và gia đình ngoài đó. Có dịp ra ngoải công tác, qua Hải Dương mình sẽ ghé
vô!" Anh Thiết - Phó Chánh văn phòng UBND vội ghé tai tôi: "Gắng tìm
cho Ảnh, Ảnh lo kiếm mãi không được đó!" Tôi bắt tay Anh, nói nước đôi:
"Sẽ cố gắng. Khi nào tìm được tôi sẽ báo tin để các Anh biết."(Năm
1986, theo sự điều động của Tổng cục Thống kê, nhà tôi và các cháu chuyển vùng
vào Phú Khánh công tác. Tôi đã gửi được qua nhà tôi hai cuốn "Tiếng hát
miền Nam" và "Bất khuất" cho Anh. Có được hai tập sách đó là nhờ
sự giúp đỡ của Anh Long - Trưởng phòng Lưu chiểu Thư viện Quốc gia Việt Nam
(Anh đã mất năm 1988 - 1989 gì đó).
Sau
buổi lễ kỷ niệm, UBND thị xã Tuy Hoà, ngành văn hoá và thư viện Hải Phú tổ chức
chiêu đãi tại nhà khách thị uỷ. Lợi xếp tôi ngồi cùng bàn với Anh Bảy Tính cùng
các đồng chí lãnh đạo Thị uỷ, Uỷ ban và Phòng văn hoá thị xã. Đang ăn, anh Bảy
gọi "Năm, mày qua đây tao dặn này". Người đàn ông được gọi sáp đến,
anh Bảy giới thiệu với tôi: "Đây là Năm Quang, quyền trưởng phòng văn hoá
thị xã Tuy Hoà. Hoạt động văn hoá dữ lắm đó" Quay sang Anh Năm, người có
dáng thấp đậm, tóc cũng nhuốm bạc, tuổi cỡ xấp xỉ năm mươi, Anh Bảy dặn:
"Chăm sóc thằng nhỏ cho kỹ, chuyển nó qua nhà khách Con gà vàng. Giữ chơi
vài hôm cho nó lại sức, rồi bảo thằng Tư khi vô Nha Trang họp đưa nó về chỗ
tao". Anh Quang dạ dạ rồi vỗ nhẹ vai tôi: "Chú em khỏi lo đi, anh
Quang mà chăm thì khỏi khụ khựa gì hết". Bữa đó, tôi không biết đã phải
chạm ly với bao nhiêu người, cũng may tiệc chỉ dùng La de (Bia lên men) và
không phải dô trăm phần trăm như bây giờ nên chịu được. Người mà Anh Bảy kêu
tên "thằng Tư" chính là Anh Nguyễn Sơn, Chủ tịch UBND thị xã Tuy Hoà
lúc đó.